Cập nhật thông tin chi tiết về Cách Dạy Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Tiểu Học mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
GD&TĐ – Tuy chỉ học những kiến thức hết sức đơn giản nhưng với lứa tuổi tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 5, việc giải các bài toán đố có yếu tố hình học là một nội dung tương đối khó trong chương trình Toán tiểu học.
Nó đòi hỏi ở người học một khả năng tư duy trừu tượng, một trí tưởng tượng không gian, một óc quan sát tốt, biết phân tích, tổng hợp những kiến thức đã học…để thực hiện yêu cầu của đề bài.
Thực tế đã cho thấy, những học sinh có khả năng tư duy tốt sẽ rất thích học môn này, song số lượng những học sinh này ít, một lớp thường chỉ có vài em. Ngược lại những học sinh có khả năng tư duy chậm hơn thì dần dần rất ngại học dẫn đến tình trạng học sinh học yếu kém môn Toán chiếm tỉ lệ khá cao so với các môn học khác.
Giáo viên có thể tiến hành một số biện pháp như sau để giúp học sinh làm tốt bài bài toán đố có yếu tố hình học.
Hướng dẫn học sinh nắm vững đường lối chung giải một bài toán.
Việc hướng dẫn HS giải các loại bài toán có lời văn với nội dung hình học cũng tuân theo đường lối chung để hướng dẫn học sinh giải toán. Thông thường có 4 bước giải như sau:
Bước 1: Đọc kỹ đề để xác định cái đã cho, cái phải tìm.
Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm bằng cách tóm tắt bài toán dưới dạng sơ đồ, hình vẽ hoặc ngôn ngữ ngắn gọn.
Bước 3: Phân tích bài toán để thiết lập trình tự giải.
Bước 4: Thực hiện các phép tính theo trình tự giải đã có để tìm đáp số (có thử lại) và viết bài giải.
Hướng dẫn học sinh nắm vững đường lối chung của một biện pháp tính
Để nắm và vận dụng thành thạo một biện pháp tính, cần qua hai khâu cơ bản: Làm cho HS hiểu biện pháp tính và biết làm tính; Luyện tập để tính được đúng và thành thạo.
Giáo viên có thể hướng dẫn HS theo các bước sau:
Bất kỳ biện pháp tính mới nào cũng phải dựa trên một số kiến thức, kỹ năng đã biết. Người giáo viên cần nắm chắc rằng: Để hiểu được biện pháp mới, HS cần biết gì, đã biết gì (cần ôn lại), điều gì là mới (trọng điểm của bài) cần dạy kỹ; các kiến thức, kỹ năng cũ sẽ hỗ trợ cho kiến thức, kỹ năng mới, hay ngược lại dễ gây nhầm lẫn cần giúp phân biệt.
Chẳng hạn: Từ chia miệng chuyển sang chia viết thì cái mới là bước thử lại (sau khi chia từng hàng đơn vị) bằng cách nhân lại và trừ, là cách đặt tính và cách viết thương. Do đó, cần ôn quan hệ giữa nhân và chia bằng hỏi đáp; hoặc ra bài tập cho làm phép chia miệng để chuyển sang chia viết.
Hoặc, để tính được số cọc rào giậu xung quanh một vườn rau hình chữ nhật khi biết hiệu và tỷ số giữa chiều dài và chiều rộng và khoảng cách giữa hai cọc trong bài toán sau: Một mảnh đất hình chữ nhật dài 8m và rộng 6m. Người ta muốn đóng cọc xung quanh, cọc nọ cách cọc kia 2m. Hỏi phải dùng bao nhiêu cọc? ” thì cái mới là cách tính số cọc đóng xung quanh hình chữ nhật hay chính là tính số cây trên đường khép kín (cây ở đây là cọc).
Bước 2: Giảng biện pháp tính mới
Mỗi biện pháp tính, trong hệ thống các biện pháp, đều được dựa trên một số kiến thức, kỹ năng cũ, nếu được hướng dẫn tốt học sinh hoàn toàn có thể “ tự tìm thấy” biện pháp.
Ở đây cần kết hợp khéo léo giữa các phương pháp giảng giải, hỏi đáp, trực quan để lưu ý HS vào được điểm mới, điểm khó, điểm trọng tâm. Điều quan trọng là trình bày trên một mẫu điển hình, trình bày làm sao nêu bật được nội dung cơ bản của biện pháp tính, hình thức trình bày đẹp.
Bước 3: Luyện tập rèn kỹ xảo
Sau khi hiểu cách làm, học sinh cần lặp đi lặp lại độngtác tương tự. Phương pháp chủ yếu lúc này là học sinh làm bài tập. Điều quan trọng là bài tập cần có hệ thống, bài đầu y hệt mẫu, các bài sau nâng dần độ phức tạp. Nếu biện pháp tính bao gồm nhiều kỹ năng, có thể huấn luyện từng kỹ năng bộ phận.
Bước 4: Vận dụng và củng cố
Cách củng cố tốt nhất, không phải là yêu cầu học sinh nhắc lại bằng lời mà cần tạo điều kiện để học sinh vận dụng biện pháp. Thông thường là qua giải toán, để học sinh độc lập chọn phép tính và làm tính. Lúc này không nên cho những bài toán quá phức tạp, mà chỉ nên chọn bài toán đơn giản dùng đến phép tính hay quy tắc vừa học. Việc ôn luyện, củng cố những biện pháp tính khác, quy tắc khác sẽ làm trong giờ luyện tập, ôn tập.
Khi củng cố, có thể kết hợp kiểm tra trình độ hiểu quy tắc: Nếu HS thực hành đúng, diễn đạt được cách làm với lời lẽ khái quát, giải thích được cơ sở lý luận- là biểu hiện nắm biện pháp, kiến thức ở trình độ cao.
Nếu HS thực hành đúng, nói được các bước làm trên ví dụ cụ thể coi như đạt yêu cầu. Nếu chỉ thuộc lòng quy tắc mà không làm được tính coi như không đạt yêu cầu.
Ôn tập, tổng hợp lại công thức tính chu vi, diện tích, thể tích các hình.
Ở lớp 5, nếu kể cả công thức tính ngược thì có tới hàng chục công thức (quy tắc) tính toán về hình học. Muốn cho học sinh có thể nhớ và vận dụng các công thức này, giáo viên cần thường xuyên cho học sinh ôn tập, tổng hợp, tăng cường so sánh, đối chiếu để hệ thống hóa các quy tắc và công thức tính toán, giúp các em hiểu và nhớ lâu, tái hiện nhanh.
Có thể kẻ bảng mẫu cho học sinh để các em tự tổng hợp các kiến thức để tiện sử dụng trong việc ghi nhớ.
Hướng dẫn học sinh giải các bài toán có lời văn chứa nội dung hình học
Áp dụng trực tiếp công thức tính khi đã cho biết độ dài các đoạn thẳng là các thành phần của công thức.
Nhờ công thức tính chu vi, diện tích mà tính độ dài 1 đoạn thẳng là yếu tố của hình.
Phương pháp dùng tỉ số: Trong một bài toán hình học người ta có thể dùng tỉ số các số đo đoạn thẳng, tỷ số các số đo diện tích hay thể tích như một phương tiện để tính toán, giải thích, lập luận cũng như trong thao tác so sánh các giá trị về độ dài đoạn thẳng, về diện tích hoặc về thể tích.
Phương pháp thực hiện các số đo diện tích và thao tác phân tích, tổng hợp trên hình: Có những bài toán hình học đòi hỏi phải biết vận dụng thao tác phân tích, tổng hợp trên hình đồng thời kết hợp với việc tính toán trên số đo diện tích. Điều đó được thể hiện như sau:
Một hình được chia ra thành nhiều hình nhỏ thì diện tích của hình đó bằng tổng diện tích của các hình nhỏ được chia.
Hai hình có diện tích bằng nhau nà cùng có phần chung thì hai hình còn lại sẽ có diện tích bằng nhau.
Nếu ghép thêm một hình vào hai hình có diện tích bằng nhau thì ta được hai hình mới có diện tích bằng nhau.
Phương pháp “Biểu đồ hình chữ nhật”: Phương pháp“Biểu đồ hình chữ nhật” là một công cụ đắc lực để giải loại toán có ba đại lượng, trong đó có một đại lượng này bằng tích của hai đại lượng kia.
Đây là một phương pháp mới nên lần đầu tiếp xúc, có thể học sinh sẽ thấy bỡ ngỡ. Nhưng khi các em đã làm quen, nó giúp ích rất nhiều trong việc trực quan hóa các mối quan hệ toán học giữa ba đại lượng và do đó làm cho cách giải trở nên dễ hiểu hơn đối với học sinh.
Hướng Dẫn Dạy Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Tiểu Học
Khoa học ngày càng phát triển, đòi hỏi con người phải phát triển toàn diện mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Cấp bậc tiểu học- cấp bậc đầu tiên của giáo dục phổ thông là những năm tháng đầu tiên góp phần hình thành tư duy nâng dần từ trực quan đến trừu tượng. Một trong những môn học quan trọng nhất mà học sinh được học là môn Toán, mà trong đó rèn luyện kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh tiểu học là một vấn đề khó và không kém phần quan trọng.
Toán học, đặc biệt là Toán có lời văn giúp học sinh rèn luyện tư duy tốt
1. Hướng dẫn giải toán toán có lời văn nhằm mục đích chủ yếu sau
Môn toán là một môn cần thiết cho người lao động, cần thiết để các em học tập các môn học khác ở các lớp trên. Bới vậy việc dạy toán đã góp phần bồi dưỡng củng cố kiến thức, kỹ năng toán học, rèn luyện phát triển óc sáng tạo và các phẩm chất tư duy cho học sinh. Có thể nói giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Toán giúp con người giải quyết các bài toán thực tế được diễn đạt bằng lời văn.
Hướng dẫn học toán nói chung và hướng dẫn giải toán toán có lời văn nói riêng là hoạt động trí tuệ đầy khó khăn và phức tạp, nó làm nền tảng cho việc học tiếp chương trình toán học ở trên lớp trên, nhưng thực tế ở các trường tiểu học hiện nay thì việc rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn chưa đạt hiệu quả cao. Cụ thể, các em chưa có phương pháp giải và ngôn ngữ còn hạn chế nên việc hiểu nội dung, yêu cầu của bài toán có có lời văn chưa được đầy đủ và chính xác, ngoài ra khả năng tư duy suy luận của học sinh tiểu học còn kém, dẫn đến việc giải toán còn gặp nhiều khó khăn. Từ đó các em ít có hứng thú giải các bài toán toán có lời văn bằng các bài toán có phép tính sẵn chỉ việc tính toán và điền kết quả.
Rèn luyện kỹ năng giải toán toán có lời văn cho học sinh tiểu học là vấn đề khó và không kém phần quan trọng đối với môn toán. Hướng dẫn giải toán toán có lời văn, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu nội dung có trong bài toán, xác định được giải một bài toán cần đầy đủ các bước (bài giải, lời gải, phép tính và đáp số). Qua đó, góp phần giáo dục các em về mọi mặt. Mặt khác, chương trình kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy toán tiểu học, nên có vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong mỗi cấp học. Học sinh hiểu và biết cách giải bài toán toán có lời văn ngay từ cấp 1 sẽ là nền tảng vững chắc khi học giải toán ở các lớp trên và áp dụng giải những bài tập khó hơn, phức tạp hơn.
Vì vậy, việc hướng dẫn giải toán toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng, giúp nâng cao tư duy trừu tượng, suy luạn logic cho học sinh.
♦ Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kỹ năng tính toán bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn.
♦ Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp, kỹ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán.
♦ Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động như: cận thận, chu đáo, cụ thể,…
Làm tốt các bài toán có lời văn là bước đệm quan trọng cho học sinh
2. Các bước hướng dẫn giải toán toán có lời văn
Để giúp học sinh thực hiện được hoạt động trên có kết quả, cần làm cho các em nắm được một số bước của quy tắc chung, hướng dẫn giải toán toán có lời văn các em có thói quen khi giải toán như sau :
♦ Tìm hiểu kỹ đề toán: Đầu tiên hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề toán, suy nghĩ về các điều đã cho của đề toán, đặc biệt chú ý đến câu hỏi của bài toán. Chớ vội tính toán khi chưa đọc kỹ đề. Ở bước này, giáo viên nên nêu hai câu hỏi để dẫn dắt học sinh: Bài toán đã cho biết gì? và Bài toán hỏi cái gì ?
Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho: Cố gắng tóm tắt nội dung bài toán bằng ngôn ngữ, ký hiệu, ngắn gọn ; hoặc ghi tóm tắt, điều kiện của bài toán, hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng, hoặc bằng lời,…
♦ Suy nghĩ xem, để trả lời câu hỏi của bài toán, cần biết gì, phải thực hiện phép tính gì ?
♦ Suy nghĩ xem từ các số đã cho và điều kiện của bài toán, có thể biết gì, có thể tính gì, phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không.
♦ Trên cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình tự giải bài toán và thực hiện các phép tính theo trình tự đã thiết lập kế hoạch để viết bài giải:
♦ Sau mỗi bước giải, cần kiểm tra xem đã tính đúng chưa, viết câu lời giải đã hợp lý chưa ?
♦ Giải xong bài toán phải thử xem đáp số tìm ra có thể trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không.
Quý phụ huynh cần tìm gia sư hướng dẫn giải toán có lời văn cho con tại nhà. Vui lòng liên hệ:
♦ Email: suphamhanoi.edu@gmail.com.
♦ Cơ sở 1: Số 101 Ngõ 189 Minh Khai – Hai Bà Trưng.
♦ Cơ sở 2: Số 27 Ngõ 98 Xuân thủy – Cầu Giấy.
Quy Trình Hướng Dẫn Học Sinh Tiểu Học Giải Toán Có Lời Văn
Khi dạy và học giải toán có lời văn ở tiểu học là một khâu mà nhiều trẻ khó và hay lúng túng. Nhiều khi tôi và thầy cô vẫn cứ dạy hàng ngày . Nhưng xét kĩ ra thì dạy thế nào cho đúng nhất và học sinh hiểu nhanh nhất thì là cả một vấn đề . Hãy xem bài viết của tôi về dạy học sinh giải một bài toán có lời văn ở tiểu học. Quy trình hướng dẫn học sinh Tiểu học giải toán có lời văn theo các bước sau.
Bước này yêu cầu học sinh phải đọc kỹ đề bài, nhớ những dữ kiện bài toán đã cho một cách chính xác và nắm vững yêu cầu của đề bài.
Trong quá trình này học sinh cần nhận ra bài toán đã cho thuộc dạng toán nào. Sau đó giáo viên toán tắt đề bài bằng cách đặt câu hỏi:
+ Bài toán cho biết gì?
+ Bài toán yêu cầu gì?
Khi học sinh đã trả lời tôi thường giúp các em gạch chân dưới những từ quan trọng mà nhiều khi học sinh đọc không đọc kĩ đề bài nên đã bỏ sót dẫn tới làm bài sai. Tuỳ theo từng dạng bài mà có cách tóm tắt phù hợp dễ hiểu.
2. Phân tích đề bài để tìm ra cách giải.
Dựa và việc nhận dạng bài toán ở bước 1, ở bước này tôi hướng dẫn học sinh cách giải bắt đầu từ yêu cầu bài toán.
+ Muốn giải đáp những yêu cầu của đề bài thì cần phải biết những gì? Những điều đó đề bài đã cho biết chưa? Nếu chưa biết thì tìm bằng cách nào? dựa vào đâu để tìm?
Cứ lần lượt như vậy cho đến khi nào học sinh có thể tìm được cách giải đáp từ những dữ kiện cho sẵn trong đề bài. Đây là bước quan trọng vì nó giúp học sinh hiểu được cách giải bài toán.
3.Tổng hợp lời giải.
Bước này ngược với bước 2. Dựa vào bước 2 các em vạch ra được thứ tự trình bày lời giải: “Cần tìm điều gì trước, điều gì sau”.
Tất nhiên những gì tìm được nhờ vào những dữ kiện cho sẵn trong bài sẽ được trình bày trước để làm cơ sở cho phân tích sau.
Bước này giúp học sinh trình bày lời giải một cách chặt chẽ, logic.
4. Trình bày lời giải.
Đây là bước trình bày giải một cách hoàn chỉnh dựa vào bước 3.
Phương Pháp Dạy Dạng Bài “Giải Toán Có Lời Văn” Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số Ở Lớp 2
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài Môn Toán là một trong những môn học giữ vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục tiểu học. Môn học góp phần to lớn trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Với đặc trưng của môn học, môn toán chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kĩ năng toán học cơ bản cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao động. Đây cũng là môn học giúp học sinh rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề; đồng thời rèn luyện trí thông minh sáng tạo và các đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực, ý chí vượt khó, thích chính xác… Trong chương trình TH, môn toán chiếm thời lượng tương đối lớn. Tuy nhiên, môn toán không được phân chia thành các phân môn chuyên biệt mà là sự kết hợp của 5 tuyến kiến thức được sắp xếp xen kẽ nhau (số học, hình học, đại lượng, thống kê mô tả và giải toán) . Trong đó, giải toán có lời văn là một trong những mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Đây là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học. Khi giải toán có lời văn các em sẽ vận dụng các kiến thức đã học để giải các loại toán về số học, yếu tố đại số, yếu tố hình học và đo đại lượng. Ngược lại, thông qua học giải toán, học sinh được củng cố khắc sâu các kiến thức về số học, về đại lượng, đo đại lượng, về hình học… Mặt khác, dạy học giải toán toán còn giúp rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tính toán với các phép tính về số học, quan trọng hơn cả là giúp học sinh hình thành phương pháp giải toán, rèn luyện khả năng diễn đạt khi giải toán. Vì vậy, khả năng giải toán sẽ phản ánh lại năng lực vận dụng kiến thức toán học của học sinh. Giải toán có lời văn là học cách giải quyết vấn đề của môn toán. Đồng thời, giải toán có lời văn còn là cầu nối giữa toán học và các môn học khác, giữa toán học và thực tế cuộc sống. Trong khi đó, giải toán có lời văn là dạng toán khó đối với học sinh dân tộc thiểu số, các em thường gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung bài toán, xác định yêu cầu của bài toán. Vì vậy cần phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm phù hợp với nội dung dạy học mới đồng thời có thể khắc phục dần những hạn chế của học sinh. Đây chính là những điều chúng tôi băn khoăn, trăn trở và đi đến quyết định nghiên cứu về Phương pháp dạy 1 Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2 . Đề tài này không phải là vấn đề mới. Nó đã xuất hiện trong một số đề tài nghiên cứu của đồng nghiệp nhưng nội dung bàn về phương pháp dạy cho học sinh dân tộc thiểu số không nhiều và không cụ thể. Vì lẽ đó, tôi hi vọng đề tài đưa ra được những biện pháp hữu hiệu nhất để vận dụng nhằm mang lại kết quả cao cho chất lượng dạy học môn toán ở những đơn vị có nhiều học sinh dân tộc thiểu số. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu của đề tài này là đưa ra được các cách tóm tắt đề toán, phương pháp giải bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng. Có định hướng giải phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng bồi dưỡng và rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh.
I.3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh người dân tộc thiểu số đang học lớp 2 ở trường Tiểu học Tình Thương- Huyện Krông Ana – Tỉnh Đăk Lăk I.4. Phạm vi nghiên cứu: – Phương pháp giải các bài toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2 – Khả năng đọc hiểu đề toán, tìm hiểu, tóm tắt và giải bài toán có lời văn của học sinh người dân tộc thiểu số đang học lớp 2 ở trường Tiểu học Tình Thương I.5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra, phân loại, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, thực nghiệm,… II. PHẦN NỘI DUNG II.1.Cơ sở lí luận Học sinh tiểu học được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1 và học liên tục đến lớp 5. Dạng toán có lời văn được xem như chiếc cầu nối kiến thức toán học trong nhà trường và ứng dụng của toán học trong đời sống thực tế, đời sống xã hội. 2
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
Chính vì vậy, muốn học sinh giải quyết tốt những bài toán có lời văn thì việc giúp các em hiểu được bài toán và biết cách tóm tắt đúng các bài toán là một việc quan trọng, là chỗ dựa cho học sinh tìm ra trình tự giải và phép tính tương ứng của bài giải. Qua tóm tắt, giải bài toán có lời văn giúp học sinh rèn tư duy lô-gic óc suy luận, khả năng phân tích, tổng hợp và khả năng trình bày khoa học . II.2. Thực trạng a. Thuận lợi – khó khăn *Thuận lợi: – Được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các cấp lãnh đạo và chính quyền địa phương. – Có sự phối hợp chặt chẽ của các đoàn thể trong nhà trường và sự hợp tác của hội cha mẹ học sinh. -Giáo viên thường xuyên được tham dự các lớp tập huấn, chuyên đề và nghiên cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học theo chương trình, giảng dạy các môn học theo vùng miền, giảng dạy trẻ có hoàn cảnh khó khăn,… – Giáo viên được phép chủ động trong việc xây dựng kế hoạch dạy học và có sự theo dõi kiểm tra chỉ đạo thường xuyên của tổ khối chuyên môn, lãnh đạo trường. – Tài liệu tham khảo khá phong phú * Khó khăn: – Trình độ dân trí ở địa phương còn thấp, điều kiện kinh tế gia đình học sinh còn khó khăn. Nhiều gia đình học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em. – Học sinh dân tộc thường nhút nhát, thiếu tự tin, khả năng tiếp thu chậm. – Giáo viên và học sinh, phụ huynh bất đồng về ngôn ngữ. b.Thành công – hạn chế * Thành công: – Học sinh có thói quen giải toán theo đúng quy trình . – Đa số giáo viên biết vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo, khai thác đồ dùng, phương tiện dạy học có hiệu quả. Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
3
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
* Hạn chế: – Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu bài toán, ngôn ngữ toán học của học sinh hạn chế. – Học sinh chưa biết cách tự học, diễn đạt còn vụng về, đôi lúc còn rập khuôn, máy móc. c. Mặt mạnh – mặt yếu * Mặt mạnh: – Đội ngũ giáo viên có tinh thần tự giác tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu đổi mới phương pháp trong dạy học. – Học sinh bước đầu nắm được quy trình giải toán . * Mặt yếu: – Khả năng kiên trì của học sinh dân tộc thiểu số trong quá trình học chưa cao. – Một số giáo viên còn lúng túng trong đổi mới phương pháp dạy học. d. Các nguyên nhân, các yêu tố tác động… *Nguyên nhân của thành công: + Giáo viên: – Nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có ý thức tìm tòi, sáng tạo trong dạy học, có lòng kiên trì, quyết tâm cao. – Thường xuyên rèn luyện bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, bổ sung kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy. – Mạnh dạn trong đổi mới phương pháp, sử dụng đồ dùng dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin. + Học sinh: Đi học chuyên cần, có ý thức vượt khó trong học tập *Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém – Học sinh không học tập bằng tiếng mẹ đẻ mà bằng ngôn ngữ thứ 2. – Khả năng ghi nhớ, vận dụng kiến thức của các em hạn chế. – Thiếu sự quan tâm, hướng dẫn, nhắc nhở từ phía gia đình. – Một số giáo viên chưa mạnh dạn trong đổi mới phương pháp dạy học. 4
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
5
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
+ Phép tính giải. + Đáp số. – Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt (so với chương trình trước đây) để dành thời gian cho học sinh đọc kĩ đề, tìm hiểu để, tóm tắt và trình bày bài giải (Chưa kể ở một số bài, giáo viên có thể chủ động giảm bớt một số bài tập khó cho phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số theo hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học số 5842 của Bộ GD&ĐT). *. Tìm hiểu để nắm vững quy trình chung khi giải bài toán có lời văn ở lớp 2 Quá trình giải toán thường theo 4 bước sau: – Tìm hiểu nội dung bài toán – Tìm cách giải bài toán – Thực hiện cách giải toán – Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải bài toán. Thực tiễn dạy học giải toán đã khẳng định tính đúng đắn của 4 bước giải toán nói trên. Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn thường xuyên, lặp đi lặp lại qua các tiết học để hình thành cho các em thói quen thực hiện giải toán theo 4 bước đó. Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán Quá trình tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc bài toán. Học sinh cần đọc kỹ, hiểu rõ đề toán, phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm.Có thể nói đây là bước quan trọng góp phần vào sự thành công trong việc giải toán của học sinh, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh xác định được yêu cầu của đề, nắm bắt được mấu chốt trong yêu cầu của bài toán. Hết sức tránh tình trạng học sinh vừa đọc xong đề đã vội vã bắt tay vào giải ngay. Phải tập cho học sinh có thói quen tự tìm hiểu đề toán qua việc phân tích những điều đã cho và xác định được những điều phải tìm. Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng bài toán đó. Với học sinh dân tộc thiểu số, khả năng hiểu tiếng Việt còn hạn chế nên các em đã gặp khó khăn ngay từ bước này. Do vậy, giáo viên cần chú ý với việc kết hợp giảng giải từ và thuật ngữ toán học giúp học sinh hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, mô hình hay dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán học…. để giúp các em hiểu khái niệm “nhiều hơn “, “ít hơn”, ‘thêm”, “bớt”,… trong tương quan giữa các mối quan hệ trong bài toán. Giáo viên cần chú ý vận dụng các biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học giúp các em được rèn luyện nhiều hơn về khả năng đọc – hiểu tiếng Việt. Để kiểm tra việc học sinh hiểu nội dung bài toán như thế nào, giáo viên nên cho học sinh nhắc lại yêu cầu bài toán không phải bằng hình thức đọc thuộc lòng mà bằng cách diễn đạt của mình (đây là yêu cầu khó đối với học sinh dân tộc thiểu số nhưng không vì thế mà giáo viên bỏ qua, cần phải kiên trì luyện tập cho các em). Sau khi đọc bài toán, học sinh cần xác định được 3 yếu tố cơ bản của bài toán: Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
7
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
– Những dữ kiện của bài toán: Đó là những cái đã cho, những cái đã biết của bài toán. Giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định dữ kiện bằng bút chì trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân các dữ kiện đã cho theo quy ước là một gạch) – Những ẩn số: Là cái chưa biết, là cái bài toán yêu cầu tìm. Tương tự như trên, giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định ẩn số bằng bút chì trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân cái bài toán yêu cầu tìm theo quy ước là hai gạch để học sinh phân biệt). Việc làm này được thực hiện thường xuyên sẽ rèn luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động trong giải toán. – Những điều kiện của bài toán: đó là mối liên hệ giữa các dữ kiện và các ẩn số. Ví dụ: Có 18 lá cờ chia đều 2 tổ. Hỏi mỗi tổ được mấy lá cờ?( bài 3 trang 111- SGK Toán 2) + Cái đã cho: 18 lá cờ chia đều 2 tổ + Cái cần tìm: mỗi tổ được mấy lá cờ? Lưu ý học sinh là trong quá trình giải toán không phải tất cả đề bài đều cho biết cái đã cho trước và cái cần tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa cái cần tìm trước rồi mới biết cái đã cho; cũng có khi cái đã cho và cái cần tìm đan xen với nhau. Ví dụ1: Tính chu vi hình tam giác có độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm và 28mm? (bài 3 – trang 153- SGK Toán 2) + Cái cần tìm: Tính chu vi hình tam giác. + Cái đã cho: độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm, 28mm Ví dụ 2: Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia được thành mấy nhóm? ?”( bài 3 – trang 136 – SGK Toán 2) + Cái đã cho: mỗi nhóm có 3 học sinh +Cái cần tìm: 12 học sinh chia được mấy nhóm? Bước 2: Tìm cách giải toán Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ kiện, ẩn số và điều kiện của bài toán nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ đó lựa chọn phép tính số học thích hợp. Hoạt động này thường diễn ra như sau: – Minh hoạ bài toán thông qua tóm tắt đề toán: Việc làm này giúp học sinh bớt được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Bởi vậy cần tóm tắt thật ngắn gọn, GV chỉ cần hướng sự tập trung chú ý của HS đến những chi tiết chính của bài toán, còn những chi tiết phụ của bài toán cần gạt bỏ đi để HS không bị rối. Tóm tắt bài toán chính là sự biểu diễn cái đã cho, 8
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng. Có rất nhiều cách để tóm tắt một bài toán, có thể tóm tắt đề toán theo các cách sau: + Tóm tắt bằng lời + Dùng sơ đồ đoạn thẳng + Dùng ngôn ngữ và kí hiệu + Dùng chữ thay số + Dùng sơ đồ Graph + Dùng bảng + Dùng sơ đồ ven + Dùng hình vẽ +Dùng hình tượng trưng Tuy nhiên, với khả năng của học sinh lớp 2, chúng ta chỉ nên hướng dẫn các em các cách tóm tắt bằng lời, dùng sơ đồ đoạn thẳng hoặc dùng hình tượng trưng. VÝ dô 1: Trong vườn có 9 cây táo, mẹ trồng thêm 6 cây táo nữa. Hỏi trong vườn có tất cả bao nhiêu cây táo? Tóm tắt: Có : 9 cây táo Thêm : 6 cây táo Tất cả có : …cây táo? VÝ dô 2: Lớp 2A có 29 học sinh và số học sinh lớp 2B nhiều hơn số học sinh lớp2A là 5 học sinh. Hỏi lớp 2B có bao nhiêu học sinh?
29 họcsinh 5 học sinh
2B:
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
9
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
Ví dụ 3: Bình có 11 quả bóng bay, Bình cho bạn 4 quả. Hỏi Bình còn lại mấy quả bóng bay? Tóm tắt : Có : Còn lại : … quả ?
Cho bạn
Đối với một số bài toán nâng cao có thể dùng thêm các dạng tóm tắt khác cho học sinh dễ tìm ra cách giải, Ví dụ như ở bài toán sau: Tìm một số biết rằng số đó lần lượt cộng với 1 rồi nhân với 2, được bao nhiêu đem chia cho 3 rồi trừ đi 4 thì được 5. Tóm tắt : +1
2
:3
?
Tùy theo trình độ học sinh thấp hay cao mà lựa chọn cách tóm tắt mang nhiều hay ít tính trực quan. Học sinh dân tộc thiểu số thường gặp khó khăn khi tìm hiểu nội dung bài toán. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn tóm tắt bài toán bằng cách đàm thoại (Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?). Học sinh dựa vào các dữ kiện của bài toán (phần đã gạch chân) để trả lời các câu hỏi của giáo viên và từng bước hoàn thành tóm tắt bài toán. – Lập kế hoạch giải toán nhằm xác lập trình tự giải quyết, thực hiện các phép tính số học: Có hai hình thức thể hiện tương ứng với hai phương pháp phân tích bài toán để tìm cách giải cho một bài toán, tùy từng bài toán cụ thể mà ta lựa chọn phương pháp tìm cách giải phù hợp. + Phép phân tích xuôi: Là phương pháp tìm cách giải đi từ dữ kiện của bài toán đến câu hỏi của bài toán. Từ những cái đã cho (đã có) suy ra hoặc tính được điều gì giúp ích cho việc giải toán không? Cứ như thế ta suy luận để tìm ra cách giải toán. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?” (bài 3 -trang 11 – SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau: – Bài toán đã cho biết những gì? (Lớp 2A có 18 học sinh, lớp 2B có 21 học sinh) – Bài toán hỏi gì? (Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh?) – Để biết cả hai lớp có bao nhiêu học sinh ta làm phép tính gì? (Làm phép tính cộng) + Phép phân tích ngược: Là phương pháp đi từ câu hỏi của bài toán đến dữ kiện của bài toán. Tức là phải tập trung vào câu hỏi của bài toán và suy nghĩ xem muốn trả lời 10
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
được câu hỏi đó thì phải biết những gì và phải làm phép tính gì? Trong những điều kiện cần thiết phải biết đó thì cái nào là cái có sẵn, cái nào phải tìm và tìm như thế nào? Cứ như thế ta suy nghĩ ngược lên: Từ câu hỏi của bài toán trở về các điều kiện của bài toán. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia được thành mấy nhóm?”( trang 136 – SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau: -Bài toán hỏi gì? (Chia được thành mấy nhóm?) – Bài toán hỏi về số nhóm được chia từ mấy học sinh? ( Số nhóm được chia từ 12 học sinh) – Muốn biết từ 12 học sinh chia được thành mấy nhóm ta phải biết gì? (Biết mỗi nhóm có mấy học sinh?) – Điều đó chúng ta biết chưa? (biết rồi), mỗi nhóm có bao nhiêu học sinh? (mỗi nhóm có 3 học sinh) – Để biết chia được thành mấy nhóm ta làm phép tính gì? (Làm phép tính chia) Bước 3: Thực hiện cách giải bài toán. Hoạt động này bao gồm việc thực hiện phép tính đã được nêu trong bước tìm cách giải bài toán nêu trên và trình bày bài giải. Cách trình bày bài giải như sau: – Viết câu lời giải : Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, với học sinh dân tộc thiểu số, nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Những tuần đầu khi học đến phần giải toán có lời văn, nhiều học sinh rất lúng túng khi viết lời giải, vì ở lớp 1 chỉ yêu cầu học sinh tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản. Bởi vậy, ở những tiết toán có bài toán giải có lời văn, giáo viên cần dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em hình thành và ghi nhớ kĩ năng giải toán. Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2. ” Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”. Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán: Lớp 2A có : 18 học sinh. Lớp 2B có : 21 học sinh. Cả hai lớp có : … học sinh? Học sinh nêu miệng câu lời giải: Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là: Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (học sinh) Tiếp đó, cho học sinh tự trình bày bài giải. Ở những bài toán trong các tuần đầu, giáo viên cần cho học sinh luyện nêu miệng bài toán nhiều lần để các em ghi nhớ cách trình bày một bài giải. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh một số mẹo nhỏ để viết được lời giải chính xác với yêu cầu câu lời giải cần phải ghi ngắn gọn, đủ ý được mệnh đề khẳng định . Đối với bài toán trong ví dụ trên, có thể dùng các cách hướng dẫn học sinh như sau: Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi), thay từ “bao nhiêu” bằng từ “số” và thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải : “Cả hai lớp có số học sinh đang tập hát là:” 11 Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
Cách 2: Bỏ từ “hỏi” và từ “bao nhiêu” trong câu hỏi rồi đưa từ “học sinh” ở cuối câu hỏi lên đầu và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: “Số học sinh cả hai lớp đang tập hát là:” Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là “từ khoá” của câu lời giải. Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: “Cả hai lớp có :…..học sinh ?”. Học sinh viết câu lời giải: ” Cả hai lớp có số học sinh là:” Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: ” Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?” để học sinh trả lời miệng: “Cả hai lớp có 39 học sinh đang tập hát” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 18 + 21 = 39 (học sinh), giáo viên chỉ vào 39 và hỏi: “39 học sinh ở đây là số học sinh của lớp nào?” (là số học sinh của cả hai lớp). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số học sinh cả hai lớp là” v.v… Giáo viên có thể vận dụng các cách khác nhau để dẫn dắt học sinh tìm lời giải, không nên bắt buộc trẻ nhất nhất phải viết theo một kiểu lời giải nào đó. Tốt nhất là giáo viên gọi nhiều học sinh nêu các lời giải khác nhau rồi lựa chọn và chỉnh sửa (nếu chưa chính xác) thành lời giải phù hợp nhất cho bài giải. Sau đó cho học sinh yếu kém nhắc lại. Từ đó khắc sâu và nhấn mạnh cho học sinh hiểu muốn tìm được câu lời giải đúng với yêu cầu của bài toán phải dựa vào cái cần tìm ( đây cũng chính là câu hỏi của bài toán ) Tuy nhiên đối với bài toán tính độ dài đoạn thẳng, đoạn dây, đường gấp khúc… có số đo đại lượng như: km, m, dm, mm, . . . giáo viên cần phân biệt một cách chính xác các khái niệm như: “đại lượng”, “Số đo của một đại lượng” để giúp học sinh tránh những sai lầm đồng nhất “đoạn thẳng” với “độ dài đoạn thẳng” hay “số đo đoạn thẳng” Ví dụ: Bài 4 trang 25 SGK Đọan thẳng AB dài 10cm, đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB 2cm. Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu cm? Học sinh không viết câu lời giải: “Số xăng-ti-mét đoạn thẳng CD dài là” mà phải viết là: “Độ dài đoạn thẳng CD là”. – Viết phép tính: Phép tính phải viết theo hàng ngang, không được viết theo cột dọc. Không viết đơn vị kèm theo trong các phép tính mà chỉ viết đơn vị vào sau kết quả phép tính và đặt trong dấu ngoặc đơn. – Viết đáp số: Đáp số viết ở cuối bài giải, bài toán có bao nhiêu câu hỏi thì có bấy nhiêu đáp số, chỉ ghi 1 lần từ “đáp số”. Đáp số phải ngắn gọn và đủ ý trả lời cho câu hỏi của bài toán. Dạy học sinh dân tộc thiểu số nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ cho các em cách viết từ “Đáp số” lùi vào mấy ô li so với từ “Bài giải” (đã được viết chính giữa trang vở) Ví dụ: Con lợn thứ nhất nặng118kg. Con lợn thứ hai nặng kém con lợn thứ nhất 7kg. Hỏi: a) Con lợn thứ hai nặng bao nhiêu kilôgam? b) Cả hai con lợn nặng bao nhiêu kilôgam? (Bài 239 – trang 39 – Toán nâng cao lớp 2) Bài giải: a) Con lợn thứ hai nặng là: 12 Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
118 – 7 = 111(kg) b) Cả hai con lợn nặng là: 118 + 111 = 229 (kg) Đáp số: a) 111 kg b) 229 kg Bước 4: Kiểm tra cách giải bài toán. Việc kiểm tra nhằm phân tích xem cách giải phép tính và kết quả là đúng hay sai, có các hình thức thực hiện sau: + Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số đã tìm được trong quá trình giải với các số đã cho. + Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải nó. + Giải bài toán bằng cách khác rồi so sánh đáp số. + Xét tính hợp lý của đáp số. Việc kiểm tra cách giải và đáp số của bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán Thực tế quan sát học sinh tiểu học khi giải toán chúng tôi nhận thấy rằng: Các em thường coi bài toán đã được giải xong khi có đáp số. Nhưng khi giáo viên hỏi: “Em có chắc chắn đó là kết quả đúng không?” thì đa số các em đã lúng túng và chưa trả lời được ngay. Kiểm tra cách giải và đáp số của bài toán là các việc như kiểm tra về: + Cách sử dụng dụng dữ kiện + Lựa chọn và thực hiện phép tính + Cách trình bày bài giải (diễn đạt câu văn , thứ tự thực hiện) + Kiểm tra lại phương pháp và thủ thuật đã sử dụng khi giải toán. Đây là bước không thể thiếu trong quá trình giải toán ở tiểu học, điều đó giúp các em đảm bảo được tính chính xác cao khi giải toán và đặc biệt giúp phát triển ở các em năng lực sáng tạo, tính tích cực, chủ động và độc lập gải toán. Đối với học sinh giỏi việc tìm ra nhiều cách giải toán khác nhau cho cùng một bài toán đó là biện pháp tốt nhất để tìm ra cách giải và đáp số của bài toán đó. Hơn thế nữa, nó tạo điều kiện cho sự phát triển tư duy linh hoạt, năng động sáng tạo của học sinh. Ngược lại, việc giúp học sinh biết cách đánh giá cách giải là một động lực thúc đẩy sự cố gắng tìm ra cách giải khác nhau để giải bài toán. Đối với học sinh dân tộc thiểu số thì giáo viên nên lựa chọn những cách kiểm tra đơn giản nhất để không làm suy nghĩ của các em bị rối *Nắm vững phương pháp dạy học toán theo hướng đổi mới Một trong những phương pháp dạy học toán ở tiểu học hiện nay đó là việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa khả năng làm việc một cách chủ động, tích cực dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên. Phương pháp dạy học tích cực là hệ thống các phương pháp tác động liên tục của giáo viên nhằm kích thích tư duy của học sinh, tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh theo quy trình. Phương pháp này tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh đều tham gia tích cực vào qua trình dạy học, học sinh được tiếp cận kiến thức bằng hoạt động làm bài tập, học sinh được làm việc cá nhân hoặc theo nhóm, trao đổi hợp tác với bạn, với thầy. Trong phương pháp dạy học tích cực: Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
13
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
14
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
– Bước đầu học sinh có kĩ năng tóm tắt bài toán không còn nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính đúng, nắm được yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. – Các em tiếp thu bài một cách chủ động, ghi nhớ được bài. Kết quả khảo nghiệm ở các lớp 2 trong học kì I như sau: Kết quả giải toán có lời văn TS HS
Biết tóm Đặt câu Lựa chọn Ghi tắt bài lời giải đúng đúng phù hợp phù hợp phép tính đáp số
Điểm môn Toán cuối Ghi chú kì I (từ TB trở lên)
20
65%
90 %
85%
70%
50%
15
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
chiếm lĩnh kiến thức dưới các hình thức học tập khác nhau. Quan trọng hơn cả trong dạy học giải toán có lời văn là hình thành cho học sinh phương pháp giải toán, rèn luyện khả năng diễn đạt khi giải toán. III.2. Kiến nghị : – Giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi trau dồi kinh nghiệm để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Giáo viên phải mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức. – Sau mỗi bài dạy giáo viên cần tự đánh giá hiệu quả của biện pháp đã vận dụng và có những điều chỉnh (nếu chưa phù hợp) kịp thời ở bài sau. – Mỗi giáo viên nên mạnh dạn đưa nội dung trao đổi về biện pháp giảng dạy các môn học vào các buổi sinh hoạt chuyên môn. – Nhà trường bổ sung đầy đủ hơn các đồ dùng dạy học, tài liệu hướng dẫn để tạo điều kiện cho giáo viên nghiên cứu, vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh. – Ngành giáo dục cần tổ chức cho giáo viên tham dự các lớp tập huấn, chuyên đề về phương pháp giảng dạy đối tượng học sinh dân tộc thiểu số thường xuyên hơn. – Các tổ chức xã hội cần quan tâm nhiều hơn nữa đến giáo dục ở những vùng khó khăn, có biện pháp động viên người dân ở vùng khó khăn quan tâm tạo điều kiện cho con em học tập. Ngày 05/01/2015 Người viết
Nguyễn Thanh Thuý
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
16
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
…………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………………… CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
17
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
[1]. Trần Diên Hiển (2004), Thực hành giải toán tiểu học (T1), NXBGD. [2]. Đỗ Trung Hiệu (2005), Những đề toán hay của toán tuổi thơ, NXBGD. [3]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 1, NXBGD. [4]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 2, NXBGD. [5]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 3, NXBGD. [6]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 4, NXBGD. [7]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 5, NXBGD. [8]. Nguyễn Danh Ninh – Vũ Dương Thụy (2003), Toán nâng cao lớp 2, NXBGD. [9]. Đỗ Đình Hoan (2010), SGV Toán 2, NXBGD. [10]. Tài liệu khác : Toán tuổi thơ, Nhi đồng chăm học, Tạp chí giáo dục
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
19
Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Trần Diên Hiển (2004), Thực hành giải toán tiểu học (T1), NXBGD. [2]. Đỗ Trung Hiệu (2005), Những đề toán hay của toán tuổi thơ, NXBGD. [3]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 1, NXBGD. [4]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 2, NXBGD. [5]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 3, NXBGD. [6]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 4, NXBGD. [7]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 5, NXBGD. [8]. Nguyễn Danh Ninh – Vũ Dương Thụy (2003), Toán nâng cao lớp 2, NXBGD. [9]. Đỗ Đình Hoan (2010), SGV Toán 2, NXBGD. [10]. Tài liệu khác : Toán tuổi thơ, Nhi đồng chăm học, Tạp chí giáo dục
20
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy
Bạn đang xem bài viết Cách Dạy Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Tiểu Học trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!