Xem Nhiều 3/2023 #️ Cảm Nghĩ Về Người Thân # Top 9 Trend | Caffebenevietnam.com

Xem Nhiều 3/2023 # Cảm Nghĩ Về Người Thân # Top 9 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nghĩ Về Người Thân mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Đề bài: Cảm nghĩ về người thân – Bài tập làm văn số 3 lớp 7

Em sống trong một căn hộ chung cư nhỏ của thành phố. Cuộc sống mỗi ngày trôi qua với em thật êm đẹp khi bên cạnh em luôn có bố và có mẹ. Bố em là người khá ít nói nên thường không biểu lộ cảm xúc của mình. Mẹ em thì thể hiện tình cảm nhiều hơn. Mẹ thường nói mẹ yêu em nhiều lần nên đôi khi em đã nghĩ rằng bố không yêu mình.

Bố em là nhân viên trong một công ty bất động sản. Công việc của bố là tìm kiếm khách hàng, tư vấn cho khách và chốt khách. Công việc ấy đôi khi khiến bố phải đi làm cả cuối tuần, cả buổi tối. Vì vậy mà thời gian bố dành cho em cũng không được nhiều như mẹ. Có những khi buổi sáng em ngủ dậy bố đã đi làm rồi. Buổi tối khi bố về, em đã đi ngủ từ lâu. Mặc dù những lúc được nghỉ bỗ vẫn chơi với em và khiến em cười nhưng đôi khi em vẫn có cảm giác em thiếu thốn tình cảm từ bố. Em cũng muốn được như các bạn, cuối tuần có bố đưa đi chơi công viên, đưa đến các khu vui chơi. Em muốn được bố cho ngồi lên cổ hay cõng trên lưng. Cảm giác được ở bên bố vừa an toàn lại vừa ấm áp làm sao. Càng nghĩ như vậy em lại càng thấy giận bố hơn.

Hôm vừa rồi, em có đem tâm sự của mình ra để nói với mẹ. Mẹ cười, xoa đầu em và bảo em ngốc. Lúc đầu em chưa hiểu vì sao mẹ lại nói như vậy nhưng sau đó mẹ đã kể những câu chuyện về bố cho em nghe. Mẹ bảo ngày mẹ mới sinh em, bố phải đi làm xa nên cuối tuần mới về được. Bố nhớ em nên tối nào cũng gọi video về để được nhìn thấy em. Rồi khi về nhà, bố giành bế em với mẹ, bố còn cho em bú nữa vì khi ấy em còn đang bú bình. Một điều mà các ông bố khác rất sợ là thay bỉm cho trẻ nhỏ thì bố cũng chẳng ngại ngần. Em nghe xong còn hỏi mẹ “Vậy tại sao bây giờ bố không yêu con nữa?”. Mẹ lại cười và tiếp tục câu chuyện. Mẹ nói rằng bố vẫn luôn yêu em như vậy. Nhưng vì bố là người trụ cột trong nhà nên bố buộc phải đi làm để kiếm tiền nuôi em khôn lớn. Mỗi sáng trước khi đi làm bao giờ bố cũng hôn lên má em. Đêm nào trước khi đi ngủ bố cũng sang xem em ngủ chưa, em nóng hay lạnh để kéo chăn đắp cho em. Nghe mẹ kể như vậy em mới hiểu rằng bố tuy không nói yêu em nhưng tình cảm của bố thì vẫn luôn dành cho em. Bố yêu em vô điều kiện như vậy mà em lại vô tình trách bố.

Tối hôm ấy bố về, em chạy lại ôm chầm lấy chân bố. Bố hình như có chút ngạc nhiên nhưng vẫn cúi xuống bế em lên. Bố hỏi “Con gái hôm nay có tâm sự gì à? Hay lại bị mẹ mắng?”. “Không, bố đi làm cả ngày nên con nhớ bố thôi”. Bố em cười. Tối hôm ấy, cả nhà em ngồi bên bàn cá ngựa. Lâu lắm rồi, cả nhà mới lôi bàn cá ngựa ra để chơi cùng nhau. Hôm sau là chủ nhật cả nhà được nghỉ nên em và bố mẹ cũng chơi khá là khuya.

Ngày hôm sau, bố quyết định đưa em và mẹ đi chơi thủy cung. Lâu lắm rồi em mới có một chuyến đi vui như vậy. Đi về, bố cho em xem clip bố ghi lại hồi em còn bé lần đầu tiên được đến thủy cung chơi. Khi ấy em còn sợ hãi những chú cá nhỏ. Bây giờ thì khác rồi.

Giờ đây, em cũng đã nhận ra tình cảm của bố dành cho mình. Em yêu bố biết bao nhiêu.

Nhã Đan

Từ khóa tìm kiếm

Cảm Nghĩ Về Những Câu Hát Than Thân

Đề bài: Em hãy chọn một số câu hát than thân và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy.

*****

– Trong ca dao, bên cạnh những bài thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước… còn có những bài hát than thân.

– Ngoài nội dung than trách số phận khổ sở, bất hạnh, những câu hát đó còn chứa đựng ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công.

+ Câu thứ nhất: Nước non lận đận một mình… cho gầy cò con?

– Hình ảnh con cò mang ý nghĩa tượng trưng thường xuất hiện trong ca dao.

– Người nông dân lam lũ, vất vả… hay mượn hình ảnh con cò để diễn tả về thân phận nhỏ bé, khổ cực của mình.

– Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị hiện lên thấp thoáng sau từng câu, từng chữ, từng hình ảnh. Nội dung câu hát mang ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội rất cao.

+ Câu thứ hai: Thương thay thân phận con tằm… có người nào nghe?

– Là một loạt hình ảnh so sánh giữa thân phận thấp kém của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến, con chim…

– Từ cảm thán Thương thay lặp lại ở đầu câu tạo âm hưởng ngậm ngùi, chua xót, mang nỗi sầu thân phận hẩm hiu, bất hạnh.

– Điệp ngữ: kiếm ăn được mấy và từ phải nhấn mạnh ý cuộc sống của người nghèo quá lầm than, cơ cực.

– Hình ảnh chim bay mỏi cánh, cuốc kêu ra máu và các câu hỏi tu từ biết ngày nào thôi? Có người nào nghe? Đặc tả thân phận lênh đênh, đầy tủi hờn, oan ức giữa xã hội phong kiến bất công, ngang trái…

+ Câu thứ ba: Thân em như trái bần trôi…

– Phản ánh số phận lênh đênh khốn khổ của người phụ nữ nghèo trong xã hội cũ.

– Hình ảnh so sánh: Thân em như trái bần trôi có sức gợi cảm lớn. Cây bần mọc ven sông, rạch, trái rụng trôi theo dòng nước. Giữa hình ảnh trái bần trôi chịu bao gió dập sóng dồi với số phận hoàn toàn phụ thuộc, bị tước mất quyền tự do, quyền làm chủ bản thân của người phụ nữ nghèo có những nét giống nhau.

– Ý nghĩa tố cáo: Xã hội phong kiến với nhiều áp bức, bất công… luôn tìm cách ràng buộc, nhấn chìm vai trò của người phụ nữ.

– Những câu hát than thân giờ đã lùi vào dĩ vãng.

– Cách mạng đã giải phóng con người, đem lại quyền tự do, bình đẳng cho người phụ nữ trong xã hội.

– Đọc những câu hát than thân, chúng ta càng thấm thía nỗi khổ của ông bà, cha mẹ ngày xưa, càng hiểu thêm giá trị cuộc sống tốt đẹp ngày nay.

Các em nếu chưa hiểu rõ và chắc chắn về ý nghĩa của các câu ca dao có thể xem lại nội dung phần soạn bài Những câu hát than thân đã học.

Top 2 bài văn hay trình bày cảm nghĩ về Những câu hát than thân

Bài mẫu 1

Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.

Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

1.

Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?

2.

Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

3.

Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần… ). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.

Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò dang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:

Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao lỗi éo le, ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu:

Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?!

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?

Cao hơn ý nghĩa của một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.

Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:

Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.

” Thương thay thân phận con tằm/ Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ” là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. ” Thương thay lũ kiến li ti/ Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi ” là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khổ. ” Thương thay hạc lánh đường mây/ Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi” là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. ” Thương thay con cuốc giữa trời/ Dầu kêu ra máu có người nào nghe” là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí soi tỏ.

Bốn câu ca dao là bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những niềm thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.

Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi nghĩ rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những cảnh ngộ thương tâm gây xúc động thấm thía.

Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm bé nhỏ kia ăn được là bao? Mượn hình ảnh ấy, người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng là mấy. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.

Câu hát: ” Thương thay hạc lánh đường mây/ Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi” diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ? Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?

Câu hát cuối: ” Thương thay con cuốc giữa trời/ Dầu kêu ra máu có người nào nghe” ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói đến nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau đớn do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.

Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, trách phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.

Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sông nước miền Nam. Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mù u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muốn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.

Tóm lại, cả bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung thân thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo đói xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ chấm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thống trị kéo dài bao thế kỉ.

Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, mỗi khi đọc những bài ca dao trên, chúng ta lại càng hiểu, càng thương hơn ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rơm rạ của một dĩ vãng đen tối đã lùi xa.

Bài mẫu 2

Ca dao chính là phương tiện để con người bộc lộ những suy tư, tình cảm sâu kín nhất trong tâm hồn. Đó không chỉ là tình cảm lãng mạn của tình yêu đôi lứa, sự sâu sắc, nhân văn trong ca dao về tình cảm gia đình mà còn là những nỗi niềm chua xót, đắng cay của con người. Nỗi niềm ấy, sự xót xa ấy được thể hiện sâu sắc qua chùm những bài ca dao viết về đề tài than thân, yêu thương chung thủy của người bình dân trong xã hội xưa.

Ca dao than thân là một hình thức ca dao khá phổ biến, đó là những lời ca than thân trách phận của những con người trong xã hội xưa, mà nhiều hơn cả là những người phụ nữ, bởi họ phải chịu những bất công, đau khổ mà xã hội phong kiến xưa mang lại. Sự rẻ rúng của thân phận những người phụ nữ trở thành một đề tài quen thuộc trong ca dao, họ bị xã hội vùi dập, tước đoạt đi quyền được sống, quyền lựa chọn hạnh phúc cho mình:

“Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Trong xã hội phong kiến xưa có quan niệm, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, người phụ nữ đến tuổi lập gia đình không có quyền lựa chọn người mình yêu, đối tượng làm chồng của mình, mà mọi thứ đều được quyết định bởi cha mẹ. Đối với những người đề cao quan điểm môn đăng hộ đối thì số phận của những người phụ nữ càng trở nên bất định, hạnh phúc như một ván bài hên xui, nếu may mắn tìm được người chồng tốt thì sẽ được hưởng hạnh phúc, còn không may gặp phải người chồng xấu thì họ vẫn phải nhẫn nhục chịu đựng, không có quyền phản kháng.

Bởi vậy mà nhân vật trữ tình trong câu ca dao này đã ví mình như một tấm lụa đào, tức là một món hàng được bày bán ở giữa chợ, không biết người mua là ai, người quân tử hay kẻ tiểu nhân, một số phận đầy bi đát, đáng thương. Ở bài ca dao sau lại là lời tâm sự đầy tha thiết của một người phụ nữ về bản thân mình, đó là người phụ nữ không có nhan sắc nhưng lại là một người có vẻ đẹp tiềm ẩn ở bên trong. Lời ca như một lời thuyết minh, giới thiệu đầy xót xa của người phụ nữ ấy về con người của mình:

“Thân em như củ ấu gai Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen Ai ơi nếm thử mà xem Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”

Xã hội xưa thường đề cao hình thức, những người con gái có diện mạo ưa nhìn, đoan trang thường được coi trọng và nhiều người để ý hơn, ngược lại những người phụ nữ không có lợi thế về nhan sắc thì bị rẻ rúng, coi thường. Nhân vật trữ tình đã tự ví mình như củ ấu gai, để nói về diện mạo xù xì, gai góc, không ưa nhìn. Nhưng bên trong củ ấu ấy lại là phần ruột trắng trong, câu ca dao nhấn mạnh đến vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, đó là vẻ đẹp khó nhận biết, nếu không chân thành thì khó có thể cảm nhận được, đó chính là những người con gái không có lợi thế về diện mạo nhưng lại là những con người thực sự đẹp về tâm hồn.

Người Việt Nam xưa thường mượn những câu ca dao để giãi bày những tình cảm sâu kín, đó chính là những lời than khóc, những tâm sự nặng trĩu của những người phụ nữ trong xã hội xưa, họ khát khao hạnh phúc, khát khao tình yêu nhưng hạnh phúc ấy với họ là một thứ xa xỉ, vận mệnh của họ nằm trong tay của người khác, không có lấy một chút tự chủ nào.

-/-

Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Cây Dừa

Phát biểu cảm nghĩ về cây dừa – Cây dừa là một loại cây trồng từ lâu năm của người dân Việt Nam và trở thành sự sống và hình tượng đặc biệt của nhiều vùng quê ven biển Việt Nam. Cây dừa không chỉ là biểu tượng mà còn là kí ức, là nơi lưu giữ những kỉ niệm đẹp trong em.

Dừa – loài cây biểu tượng của một số vùng đất ven biển Việt Nam. Đất nước Việt Nam càng một tươi đẹo hơn khi những hàng dừa sừng sững như tấm lá chắn của con người trước những bão tố từ biển. Dừa – một loài cây họ Cau, là một trong những cây loại lớn của họ nhà cau, thân trơn trục, nhiều khi có tên là nhóm tên cau dừa. Một cây dừa có thể cao tới 30m, với các lá đơn sẻ thùy, giống như những lông chim khi ta nhìn lên. Lá dừa rất dài, một tàu có thể dài từ 4 – 5m. Lá kèm thường biến thành bẹ dạng ôm lấy thân cây. Khi lá già dụng đi thì thường để lại vết sẹo trên thân, ta thấy giống như những vân dừa trên thân. Dừa phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như hợp với môi trường nhiều nắng và lượng mưa phù hợp. Chính vì điều nàu đã giúp dừa trở thành một loại cây đặc biệt, định cư ngay tại các vùng ven biển một cách dễ dàng.

Dừa cho trái có rất nhiều công dụng, làm nước giải khát trong những ngày hè; cùi dừa có thể kho thịt hay làm mứt; hoặc có thể dùng để chế biến thành dầu dừa có công dụng rất tốt. Vỏ dừa thì trở thành nguyên liệu đun nấu trong gia đình. Mỗi mùa hè, ta được uống những cốc nước dừa thật mát lạnh thì có gì tốt được hơn vậy.

Dừa không chỉ là một biểu tượng của làng quê ven biển của Việt Nam, dừa trong em còn là một kỉ niệm không thể nào quên. Quê nội em là xứ sở của dừa. Ở đây không chỉ có vài cây mà có cả một sự nối tiếp các rặng dừa. Nếu đứng bình thường thì không tài nào có thể quan sát được hết đến đâu là cây dừa cuối cùng. Thân cây tròn to như chiếc cột lớn. Lá dừa tán rộng đứng hiên ngang giữa trời cao mây trắng. Cây dừa đứng đó như thách thức, như đợi chờ. Mỗi năm mùa hè, em lại được bố mẹ cho về quê, dược chơi cùng các bạn ở quê em thấy rất vui. Năm ấy em lên 6, mẹ em đưa về quê chơi nhưng lại về luôn vì còn bận việc. Em ở lại luôn nhà nội một tháng. Trong lần ấy, em có chơi với các bạn trong xóm, cứ trưa là chúng em lại tụ tập dưới gốc dừa. Có khi có cơ hội lại ngồi căng võng giữa gốc dừa để ngủ trưa.

Nam là bạn ở xóm giữa, nay lại tụ tập chơi với nhóm em và Nam là một cậu bé hiếu động, Nam thường hay nghĩ ra các trò chơi thường khi chơi xong lúc cũng có một đứa gánh thương tích. Có lần, nó rủ cả bọn đi nhặt vỏ sò thì có bạn bị đứt chân,.. Nhìn thấy Nam, em liền tránh nó, nhưng cũng chẳng ích gì. Nam rủ cả bọn đến nhà bác Tiến, nó bảo hôm nay nhà bác không có ai ở nhà, cả bọn đi đến nhà bác Tiến, lách mãi mới vào được cổng, cả bọn lại gặp ngay đối thủ. Hai con chó mới đẻ đuổi theo chúng em. Đứa nào đứa ấy vội vàng chạy, em thấy có cây dừa ở cổng nhà bác liền leo lên. Chó không đuổi theo bọn trẻ con nữa thay vì đó nó đứng dưới gốc nhìn em, nhảy lên để cắn em. Em nhớ lần ấy tận đến khi bác về em mới có thể leo xuống. Thấy bác em không dám nói gì nhưng chỉ biết nhanh về nhà. Lần ấy khiến em nhớ mãi.

Cây dừa cứ thế là biểu tượng của quê hương em, của vùng đất ven biển và là mảng ký ức đẹp trong em. Em rất tự hào về quê hương em, càng thêm yêu quê hương Việt Nam hơn.

Hà Vũ

Cảm Nghĩ Về Truyện Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn

Phạm Duy Tốn là một trong số ít những nhà văn thành công trong thể loại truyện ngắn hiện đại vào cuối thế kỉ XIX đầu XX. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” là một trong những tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc nhất của ông. Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, nhà văn đã lên án, phê phán gay gắt bọn quan lại vô lương tâm, vô trách nhiệm với nhân dân gây nên bao cảnh lầm than, bi đát cho trăm họ.

Mở đầu truyện là cảnh thiên tai ập đến dân chúng giữa đêm khuya: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá, khu đê làng X. thuộc phủ X. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Giữa đêm khuya, hàng trăm người kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy…lướt thướt như chuột lột”. Bên trên “mưa tầm tã như trút xuống”, ở dưới “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Quả thật là một tình cảnh hết sức gian nan, vất vả cho dân làng. Thiên tai thì năm nào cũng có, nhưng thiên tai bão lũ lúc nửa đêm thế này thì ai mà không lo lắng, sợ hãi lỡ đê vỡ mất thì khủng khiếp biết nhường nào!

Trong lúc “lũ con dân đang chân lấm tay bùn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài “thì trong đình” đèn thắp sáng trưng, nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng”. Cảnh này sao quá đỗi nghiêm trang, thanh bình. Nhưng phải chi cảnh ấy ở nơi xa xôi, cách biệt với ngôi làng đang trong cảnh “nước sôi, lửa bỏng”, đằng này nó chỉ cách đó mấy trăm thước và cũng gần đê nhưng cao ráo, vững chãi. Nơi ấy, quan phụ mẫu đang ngồi chễm chệ, uy nghi, “tay trái tựa gối xếp, tay phải duỗi thẳng ra, để cho người nhà quỳ dưới đất mà gãi”. Kế bên là “bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút”…Xung quanh các thầy đề, thầy đội…thi nhau hầu bài cung phụng quan phụ mẫu. Một lũ người vô lương tâm, vô trách nhiệm đang “ngồi mát ăn bát vàng”, bất kể dân chúng đang trong cảnh khốn cùng, bĩ cực chống chọi với thiên tai, bọn chúng vẫn ung dung, nhàn hạ, “bình chân như vại” coi như không có việc gì. Là quan phụ mẫu, được coi như cha mẹ của dân. Ấy vậy mà hắn coi “một nước bài cao, bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập”. Bên ngoài mưa gió ầm ầm, trời long đất lở, ai chết mặc ai. Bên trong, hắn vẫn thảnh thơi “xơi bát yến”, “ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi…”. Cái cảnh ấy khiến ai trông thấy mà chẳng uất ức, nghẹn ngào.

Tuy nhiên, xung quanh đó một lũ quan vô lại vô tích sự đang ngồi hầu bài mà miệng không ngớt lời nịnh hót, o bế tên quan phụ mẫu. Bọn chúng tranh nhau tỏ ra cho quan lớn biết “mình vào được nhưng không dám cố ăn kìm”, “mình có đôi mà không dám phỗng qua mặt”, nhằm tâng bốc, lấy lòng quan lớn.

Bằng nghệ thuật tương phản, tác giả vẽ nên một bức tranh vô cùng sinh động: một ngôi làng đang trong cảnh mưa gió, bão lũ bao trùm, nhân dân điêu đứng, khắp nơi nước dâng lênh láng, con người, nhà cửa, trâu bò, gà vịt đang rên xiết, kêu la ầm ĩ. Ở giữa là một thủ phủ của tên quan phụ mẫu, bên trong đèn đuốc sáng trưng, trông rất trang nghiêm, người người nhàn hạ chơi tổ tôm rất đỗ sung sướng. Thật đúng là một cảnh trớ trêu! Giọng văn miêu tả của tác giả đầy mỉa mai, khinh bỉ nhưng cũng đầy chua xót.

Tên quan phụ mẫu đang say sưa với những ván bài, bỗng bên ngoài “tiếng kêu trời dậy đất”. Mọi người đều giật nảy mình, riêng hắn vẫn điềm nhiên, bình thản như không nghe thấy. Đến khi có người hớt hải chạy vào báo quan đê vỡ thì hắn giận dữ quát: “Đê vỡ rồi!…Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?…Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?” Hắn đuổi cổ người bẩm báo ấy và tiếp tục ván bài của mình.

Dưới ngòi bút đầy sắc sảo của tác giả, tên quan phụ mẫu hiện ra là một tên quan “lòng lang dạ thú”, vô cùng tàn nhẫn, không một chút tính người. Chúng coi dân như cỏ rác. Là quan lớn, đáng lẽ hắn phải lo cho dân chúng, chỉ đạo việc đê điều, giúp dân vượt qua thiên tai thì hắn lại ung dung hưởng lạc thú. Hắn sống sung sướng trên nỗi đau của người dân. Cuộc sống của nhân dân bị đè nặng bởi thiên tai là bởi lũ quan lại thối nát, bẩn thỉu. Họ luôn luôn phải sống trong cảnh đau khổ triền miên.

Đoạn kết là cảnh trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp nơi mọi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không còn chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước”. Đúng là một cảnh hãi hùng, đau xót giữa đêm khuya.

Ngòi bút miêu tả đặc sắc của tác giả đã khắc họa nên một bức tranh về cảnh lầm than, tang tóc của người dân trong cơn đại hồng thủy lúc nửa đêm. Qua đó, tác giả cũng đã vạch trần bộ mặt xấu xa, tàn ác của bọn quan lại, lũ sâu dân mọt nước sống hưởng lạc trên sự đau khổ của nhân dân.

Cảm nghĩ về truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn – Bài làm 2

Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn là một tác phẩm xuất sắc, được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi đó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ.

Mở đầu cho câu truyện được tả với nhiều chi tiết cụ thể về thời gian không gian : “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”.

Cảnh hằng trăm nghìn con người hốt hoảng chạy ngược xuôi lo vỡ đê, tìm mọi cách để giữ cho đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của dòng lũ đã được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương… “kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”.

Không khí đã diễn tới đỉnh điểm ” Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cù củng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh những người dân loay hoay , tuyệt vọng chống chọi với nước lại hoàn toàn trái ngược với những gì diễn ra ở trong đình : “Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ ở đâu ?”

Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy củng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.

Đáng ra trước tình thế đo, người phụ mẫu của dân phải ra chỉ đạo hộ dân nhưng trớ trêu thay lại ở trong đình với không khí nhàn hạ , chiễm chệ : ” đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn được hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy…”

Qua đây cho thấy quan nhàn hạ, ung dung và không hề quan tâm tới tình cảnh thảm thương của dân chúng ở phía bên ngoài. Với việc dựng lên hai cảnh tượng đối lập như vậy, tác giả có dụng ý nói lên nỗi thống khổ của dân đen phải trải qua và qua đó còn tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan vô lại .

Lúc này người độc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏn như thế , tính mạng của cải của hàng nghìn người dân đáng thương đang bị đe dọa từng giây từng phút thế mà tên quan vô lại kia lại ngồi điềm nhiên vui chơi hưởng thú vui.

” Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.

Từng chi tiết như khắc ghi tâm cốt của người độc, nó lại hoàn toàn trái ngược với hình ảnh của người dân, làm cho người đọc tê tái cả cõi lòng, có phần uất hận, căm phẫn thay cho dân đen : … mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít… trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê…

Sự đối lập này nhằm phê phán sự tàn bạo, độc ác và vô nhân đạo của tên quan phủ và những gì mà dân chúng phải hứng chịu.

Có người bẩm báo là có khi đê vỡ, hắn trả lời thật phũ phàng: Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài. Thú vui cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri, nhân tính.

Tính cách của tên quan phủ còn được miêu tả khá là tỉ mỉ từ cử chỉ, lời nói tiêu biểu. ” Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc…” Khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi ! Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy ? Không còn phép tắc gì nữa à ? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: ù Ị Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày !”

Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ để tác giả thực sự thấy thương xót đồng cảm cho dân chúng : “Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!…”

Ở trong đoạn cuối tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả lại vừa dùng biểu cảm để miêu tả về cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống lầm than đói khỏ của nhân dân không phải là do thiên tai gây nên mà trước tiên là do thái độ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của kẻ cầm quyền đương thời.

Nghệ thuật tăng cấp được được nhà văn sử dụng tài tình xuyên suốt có tác dụng nhấn mạnh về ý nghĩa của tác phẩm, làm khắc họa rõ rệt về nét tính cách của nhân vật chính đó là tên quan phụ mẫu.

Nhờ sự khéo léo giữa việc kết hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc miêu tả, kể chuyện cho nên tác giả truyện sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ độc ác và qua đó bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc đối với người dân.

Cảm nghĩ về truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn – Bài làm 3

Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc hay của Phạm Duy Tốn.

Đoạn một : từ “Gần một giờ đêm…” đến “… Khúc đê này hỏng mất” : nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân.

Đoạn hai : từ “Ấy, lũ con dân…” đến “… Điếu mày” : cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”.

Đoạn ba : phần còn lại : cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.

Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt: về thời gian, đây là lúc “gần một giờ đêm” nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng : cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao ! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. “Mưa tầm tã”, rồi lại “trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống”. Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. “Nước sông Nhị Hà lên to quá” rồi lại “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào ? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng ! “Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hổi, tiếng người xao xác gọi nhau…”. Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau : “tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm”, kết hợp một hình ảnh so sánh “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán “xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay ! Nguy thay !…”. Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương ! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta.

Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói : “Bẩm, đê có khi đê vỡ !”. Tên quan gắt : “Mặc kệ !”. Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin “Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi” thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng : “Đê vỡ rồi !… thời ông cách cổ chúng mày, bó tù chúng mày !”. Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề “tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…” (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói : “Ù ! Thông tôm, chi chi nảy !… Điếu, mày !”. Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hướng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết : “Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !”. Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.

Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, tác giả Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” trước sinh mạng của người dân và bày tỏ niềm cảm thương của mình trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền đưa đến. Hai bức tranh đời tương phản, trái ngược ấy đậm đà chất hiện thực và thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, nhân văn.

Bạn đang xem bài viết Cảm Nghĩ Về Người Thân trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!