Cập nhật thông tin chi tiết về Đại Thắng Mùa Xuân 1975 mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc thắng lợi chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975), đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc kể từ cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.
Nhân kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2020), Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lê, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Khoảnh khắc lịch sử xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975, đánh dấu thắng lợi trọn vẹn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài hơn hai thập niên (1954 – 1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: Trần Mai Hưởng/TTXVN
Sức chiến đấu kiên cường, bền bỉ toàn dân tộc
Năm 1954, thực dân Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, buộc phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) rút khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, ngay sau đó, thực hiện chính sách “lấp chỗ trống”, đế quốc Mỹ nhảy vào tiến hành chiến tranh xâm lược, âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Để thực hiện mưu đồ trên, Mỹ dựng lên chính quyền, quân đội tay sai, ra sức phá hoại Hiệp định Geneva, đàn áp phong trào cách mạng miền Nam.
Chỉ trong vòng 4 năm (1954 – 1958), cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ, đảng viên; gần 90 vạn đồng bào yêu nước bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn, giết hại… Trước âm mưu, hành động xâm lược của địch, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội đối lập nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn nằm dưới sự đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và tay sai.
Như vậy, khác với 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, kẻ thù của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lần này là đế quốc Mỹ, đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa với tiềm lực kinh tế, quân sự rất hùng mạnh. Để đương đầu, đánh thắng kẻ thù đó, đòi hỏi nhân dân Việt Nam phải có sức mạnh rất lớn – sức mạnh chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, hay nói một cách khác, đó là sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước, tập trung cao độ trước hết ở đường lối kháng chiến.
Từ năm 1965, để cứu nguy cho chế độ Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh, nhiều loại vũ khí, trang bị cùng phương tiện chiến tranh hiện đại vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam; đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 12 đã thêm một lần nữa khẳng định nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng thiêng của cả dân tộc, của nhân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc; từ đó đề ra quyết tâm: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.
Đường lối kháng chiến do Đảng đề ra đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước, thực sự trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nhau đoàn kết phát huy sức mạnh tổng hợp vì lý tưởng cách mạng cao đẹp mà lịch sử đặt ra. Sức mạnh đấu tranh nhờ đó được biểu hiện phong phú, nhân lên gấp bội, biến thành hành động thực tiễn qua nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi khắp cả nước, từ hậu phương đến tiền tuyến.
Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 2 vượt sông tiến về Sài Gòn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
Điển hình như các phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”… ở miền Bắc; các phong trào “Bám đất, giữ làng”, “Một tấc không đi, một li không dời”, “Giết giặc lập công”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”… ở miền Nam; hay quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”… trên tuyến chi viện chiến lược Bắc – Nam. Tất cả đều hướng đến mục tiêu độc lập, hòa bình và thống nhất non sông.
Một nhà sử học Mỹ đã nhận xét rằng: Lịch sử phải đánh giá họ (người Việt Nam – miền Nam cũng như miền Bắc) cao nhất về sức chiến đấu ngoan cường và dũng cảm của con người. Còn cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara thì thừa nhận: nước Mỹ thua trận vì đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thúc đẩy họ đấu tranh cho giá trị và mục tiêu cao cả.
Bằng sức mạnh đó, trải qua gần 20 năm liên tục chiến đấu anh dũng kiên cường, bền bỉ, quân dân Việt Nam lần lượt từng bước đánh bại các chiến lược chiến tranh của kẻ thù: chiến tranh đơn phương, “tố cộng, diệt cộng” (1954 – 1960), “chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965), “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 – 1973), buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là thắng lợi cơ bản, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến.
Quyết tâm giành toàn thắng
Với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, tuy rút quân viễn chinh về nước, song đế quốc Mỹ lại lập ra bộ chỉ huy quân sự trá hình, tiếp tục viện trợ cho chính quyền, quân đội Sài Gòn ra sức phá hoại Hiệp định hòa bình vừa mới ký kết, hòng kéo dài chiến tranh xâm lược.
Về phía cách mạng, chúng ta thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris, nhưng trước hành động phá hoại trắng trợn, có hệ thống của địch, buộc nhân dân ta phải tiếp tục đấu tranh để giữ vững thành quả cách mạng, từ đó tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 21 (7-1973) đã khẳng định: bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam vẫn là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công để giành toàn thắng.
Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Đáp ứng yêu cầu cấp cách mạng đặt ra, Đảng họp Hội nghị Bộ Chính trị (30-9 – 7-10-1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (18-12-1974 – 8-1-1975), chính thức hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng, toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.
Thực hiện quyết tâm mà Bộ Chính trị đề ra, cả dân tộc “ra quân” trong mùa Xuân 1975 lịch sử. Chưa bao giờ, khát vọng hòa bình, thống nhất non sông của quân dân ta diễn ra sục sôi cao trào như thời điểm này. Chỉ ba tháng đầu năm 1975, hậu phương miền Bắc đã dốc sức đưa vào chiến trường miền Nam gần 12 vạn cán bộ, chiến sĩ; chi viện 230 nghìn tấn vật chất các loại, bảo đảm 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải…
Sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam thời kỳ này không chỉ tạo nên sức mạnh áp đảo về thế và lực so với quân địch, phục vụ tốt yêu cầu Tổng tiến công và nổi dậy, mà còn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng trên tất cả các mặt: kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế… chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng giải phóng khi chiến tranh kết thúc.
Được sự chi viện to lớn của miền Bắc, trên khắp chiến trường miền Nam, quân dân ta ra sức chuẩn bị các mặt cho trận quyết chiến quyết định cuối cùng. Chưa bao giờ, các phong trào đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, ngoại giao diễn ra sôi nổi như thời gian này, đẩy chính quyền, quân đội Sài Gòn lún sâu hơn vào tình thế khó khăn, hoàn toàn bị cô lập. Sức mạnh chiến đấu từ hơn 20 năm được dồn lại cho thời khắc lịch sử này.
Sau một thời gian chuẩn bị mọi mặt tạo thế, tạo lực, ngày 4-3-1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta bắt đầu, diễn ra với ba đòn tiến công chiến lược lớn: Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4-3 đến 3-4-1975), tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng (từ 21-3 đến 29-3-1975) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26-4 đến 30-4-1975).
Bốn chiến sĩ Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) – những người đầu tiên vào Dinh Độc lập và cắm cờ trên nóc phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn trưa 30-4-1975. Ảnh: Đinh Quang Thành/TTXVN
Trưa 30-4-1975, quân ta tiến vào Dinh Độc lập, bắt sống toàn bộ nội các chính quyền trung ương địch. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cả chặng đường 30 năm đấu tranh trường kỳ gian khổ (1945 – 1975). Đây chính là một trong những chiến công tiêu biểu nhất, huy hoàng nhất trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam.
Nhân dịp cả nước chào mừng kỷ niệm 45 năm Đại thắng mùa Xuân 1975, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ, toàn diện hơn về ý nghĩa tầm vóc sự kiện lịch sử trọng đại này. Từ đó, mỗi chúng ta càng nêu cao niềm tự hào dân tộc, biết trân trọng gìn giữ hòa bình, gìn giữ chủ quyền, từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc; ra sức thi đua lao động, học tập, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo Trần Hiền Hạnh (TTXVN)
Thơ Về Đại Thắng Mùa Xuân 1975
Lời BBT: Năm mươi sáu ngày đêm lịch sử (từ 4-3 đến 30-4-1975) trong thế trận “trúc chẻ ngói tan” khi thời cơ chiến lược xuất hiện, táo bạo, thần tốc, quân và dân ta dốc sức tiến công, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, lành lại nỗi đau chia cắt, đem niềm vui hòa bình đến với mọi nhà, với toàn dân tộc. Đồng Nai trước giải phóng 1975 là địa bàn chiến lược, cửa ngõ vào Sài Gòn, nơi địch điên cuồng lập phòng tuyến tử thủ, đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, đổ nhiều xương máu hy sinh.
Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Đồng Nai Cuối tuần giới thiệu một số bài thơ của những người lính trực tiếp tham gia chiến dịch lịch sử, có mặt trong những trận chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang ấy. Trang thơ do nhà thơ Đàm Chu Văn tuyển chọn.
Thương
Đã vượt qua cả ngàn cây số đạn bom
bạn nằm lại ở rừng cao su Bà Rịa
đành chịu lỗi với mẹ
ngày mai chiến dịch cuối cùng sẽ mở
chắc mẹ ở nhà dõi theo chờ
máu chảy theo hình chữ S
chảy đến mỗi ngõ nhà…
25-4-1975
Lực lượng giải phóng tiến vào Sài Gòn mang theo cờ và ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 30-4-1975. Ảnh: Jacques Pavlovsky
Khi ấy mặt trời chưa lên
Chỉ có pháo bắn thật gần
mới được cười thoải mái
bom nổ loạt thật dài
mới hát hết một câu
Pháo sáng vãi đúng đầu
mới nhìn rõ mặt nhau
mới nhìn rõ những cái đầu
mọc lên từ cát
giống một vườn cây ươm
Chỉ có dứt hẳn tiếng pháo, tiếng bom
mới nghe tiếng gào
của dòng sông chảy xiết
tiếng quẫy nước
phải rất tinh mới nghe thấy được
trong chớp lửa nhập nhòe
chúng tôi vượt sông
Chỉ có ánh sáng vừa lên
mới trông rõ dải sao trong khói bom
không đứng yên mang tâm hồn chiến sĩ
mới trông rõ dòng sông Đồng Nai lấp loáng
chảy ngang
và đội hình chúng tôi vượt qua
hàng dọc
thành một dấu cộng
mặt trời khi ấy chưa lên
Mặt trời sẽ lên thôi
chúng tôi đẩy mặt trời lên
để nhìn rõ Sài Gòn phía trước
để viên đạn bay đi khỏi lạc
bầy chim xòe quạt đón mặt trời
Sài Gòn ơi!
hồi hộp kia rồi
qua họng súng bồn chồn trên sóng nước
mặt trời khi ấy
vẫn chưa lên…
Vượt sông Đồng Nai.
30-4-1975
Vương Cường
Đêm vào chiến dịch
Ta lại mở những cung đường mới nữa
Đường dài không nhớ hết những đoàn quân
Bánh xe lăn hòa với những bước chân
Ngọt trong gió đêm hè chiến dịch
Ôi con đường dẫn ta tới đích
Là con đường có ánh sáng hàng tiêu
Đồng chí công binh bắt tay người ra trận
Thấy con đường ấm như bàn tay
Từ Xuy Nô đến ngã ba Cây Điệp
Những con đường nối bước xung phong
Đêm không ngủ dẫn xe vào trận đánh
Bóng nghiêng dài trên tháp pháo xe tăng
Ngâm mình trong nước lạnh
Nhổ rào kẽm gai, cột sắt
Áo loang màu đất, mùi bùn
Tất cả vững vàng trong thế trận tấn công!
Bến Cát, tháng 4-1975
Đức Quả
Những Chiến sĩ Điện Biên
Tư lệnh trưởng hướng Bắc gặp Chính ủy hướng Nam
Nỗi xúc động rung hai mái đầu tóc bạc
Những Chiến sĩ Điện Biên năm trước
Lại gặp nhau ở đích cuối cùng.
Dọc xa lộ Biên Hòa
Đỏ lòng xa lộ: màu cờ
Trắng bờ xa lộ: giặc giơ tay hàng
Chúng thoát chết, miệng hân hoan
Sài Gòn mở cửa đón đoàn quân vô.
Trước Dinh Độc Lập
Dép còn lấm đỏ đất rừng
Hân hoan nhịp bước giữa rừng cờ hoa
Hồn như bay giữa giấc mơ
Quanh tôi ba má, dì cô hỏi chào
Vui sao nước mắt dâng trào
Bốn phương đồng đội gặp nhau phen này.
30-4-1975
Nguyễn Miền Đông
Trận cuối cùng
Mai vào trận cuối cùng
Đêm nay ta không ngủ
Tin vui như hoa nở
Náo nức mãi trong lòng
Gần xa trong tiếng súng
Tiếng dân reo vang lừng
Một vùng đất mênh mông
Đã rợp cờ giải phóng
Ta như cơn gió lốc
Mới ngày nào Chơn Thành
Hôm qua về Long Khánh
Biên Hòa đây rồi anh!
Những binh đoàn lớp lớp
Tiến quân về Sài Gòn
Tăng, pháo ta trùng trùng
Mặt quân thù khiếp đảm
Đồn bốt thù hiện ra
Lù lù trong bóng tối
Những lá cờ ba que
Trong đêm đen hấp hối
Ta hành quân thần tốc
Sài Gòn ta vây chặt
Quả đấm thép sẵn sàng
Giáng xuống đầu quân giặc
Nào, tăng ơi xông lên!
Hãy gầm vang đường phố
Quyết tâm trong trận này
Diệt thù tận hang ổ!
Mai vào trận cuối cùng
Đêm nay ta không ngủ
Trời đã hừng phía đông
Sài Gòn ơi, súng nổ!
29-4-1975
Nguyễn Quốc Trung
Bộ đội Quân đoàn 4 tiến vào giải phóng Xuân Lộc tháng 4-1975
Sài Gòn vào trận (trích)
Cờ trắng địch kinh hoàng trong tiểu khu Hàm Tân
trận cuối cùng này lại ghi thêm một chiến công chói lọi
cùng với hôm qua quân ta tiến vào Xuân Lộc giáng đòn vỗ mặt kẻ thù
ở đấy phòng tuyến được ken bằng xe tăng, phi cơ, bộ binh và lính dù chẳng ngăn được lớp sóng tiến công bắt đầu từ Phước Long, Pleiku, Buôn Mê Thuột; lớp sóng của những người chân đi dép cao su mang khí thế ngựa Gióng năm xưa và nghĩa quân Nguyễn Huệ tràn qua dải cát miền Trung, tràn qua những cánh rừng già cao nguyên bốn mùa mầu lá xanh um hướng về thành phố dinh lũy cuối cùng của lũ tay sai ngoan cố nơi đau thương trùm lên từng xóm nhỏ những căn nhà, ô cửa mốc meo chồng lớp trước sau những mái hiên thấp tè và tường gạch xỉn màu day dứt uất căm chồng chất.
Sóng ơi! Hãy bổ vào thành phố với những con đường như nhà lao khép chặt
Lửa ơi! Hãy bùng lên từ lòng Sài Gòn ấp ủ bao năm giải phóng những người thợ áo xanh, giải phóng những người buôn thúng bán bưng, giải phóng những em thơ, những ca-ve có cuộc đời như ngõ cụt; cho Chương Dương lại vang lên khúc hát, tiếng hát hào hùng có tự ngàn xưa; cho Thị Nghè sóng sánh nước xanh mơ; Sài Gòn yêu thương lại sáng ngời giữa lòng dân tộc.
Khi cờ đỏ ta bay trên phố dài Xuân Lộc
là lúc ta bắt đầu…
Lê Quang Trang
Đại Thắng Mùa Xuân 1975: Thời Cơ Ngàn Năm Có Một…
Sau Hiệp định Paris năm 1973, dẫn tới việc quân đội Mỹ rút hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam, tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa bị suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là sau khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate vào tháng 8 năm 1974.
Sự suy sụp này còn xuất phát từ những nguyên nhân như: Mỹ giảm dần viện trợ quân sự, tinh thần của binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hòa rất rệu rã, các mục tiêu tác chiến không thể hoàn thành như đã định, dẫn đến những thất bại liên tiếp trên chiến trường.
Mỹ giảm viện trợ, quân lực Việt Nam Cộng hòa suy yếu nghiêm trọng
Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa đã dần bị cắt giảm. Theo số liệu thống kê, năm tài khóa 1973 là 2,1 tỷ USD, sang năm 1974, lượng viện trợ quân sự chỉ còn 1,4 tỷ USD và dự kiến viện trợ năm 1975 chỉ là 700 triệu USD.
Theo lời kể của ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng trưởng Kế hoạch của chính phủ Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ, Giáo sư Warren Nutter là Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng, đặc trách phần tài chính của chương trình “Việt Nam hóa” đã kể lại buổi điểm tâm với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu vào sáng ngày 23 tháng 8 năm 1974 tại Dinh Độc Lập.
Ông Thiệu bày tỏ sự lo ngại về viện trợ: “Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 dollars và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo”.
Ông Nutter cũng rất bối rối và giải thích rằng, Quốc hội Hoa Kỳ đôi khi hành động vô trách nhiệm và Trung tâm Tư liệu Đông Dương (Indochina Resource Center) đang hết sức tìm cách tiêu diệt Việt Nam Cộng hòa.
( Trung tâm tư liệu Đông Dương là một tổ chức nghiên cứu giáo dục tinh thần phản chiến có trụ sở tại Washington; do ông David Marr – cựu sĩ quan tình báo Thủy quân lục chiến Mỹ ở Việt Nam năm 1962 – 1963, khởi xướng thành lập vào năm 1972. Đến năm 1982, Indochina Resource Center sáp nhập vào Asia Research Center – Trung tâm nghiên cứu châu Á).
Nền kinh tế và chi tiêu của Việt Nam Cộng hòa duy trì được chủ yếu nhờ viện trợ Mỹ. Nền công nghiệp miền Nam nhỏ bé, nông nghiệp bị chiến tranh tàn phá; lạm phát phi mã xảy ra cùng với tệ tham nhũng, lợi dụng chức quyền càng làm cho nền kinh tế thêm tồi tệ.
Ông Bùi Diễm, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, đã từng nhận định tình hình kinh tế và quân sự của miền Nam Việt Nam đầu thập niên 70 đã trở nên rất xấu, khiến người dân không hài lòng với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tiền lương quân nhân không đủ sống do đó tình hình chính trị cũng xấu theo.
4/1975, Việt Nam đã giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước
Trong tập hồi ký “Mùa Xuân Đại Thắng”, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã viết, một trong những động cơ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công ở miền Nam là do Mỹ đã giảm viện trợ, khiến cho lực lượng quân lực Việt Nam Cộng hòa vốn được tổ chức rập khuôn theo lối đánh tốn kém của Mỹ đã không thể có đủ tài chính để duy trì số lượng lớn vũ khí.
Theo các tài liệu lưu trữ, sau khi Mỹ giảm viện trợ quân sự, hỏa lực không quân của Việt Nam Cộng hòa đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn; khả năng cơ động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ và nhiên liệu.
Trong khi quân đội Sài Gòn cần 3 tỉ dollars mỗi năm để duy trì bộ máy chiến tranh thì Hà Nội chỉ cần 10% con số đó để xây dựng một lực lượng quân sự đủ lớn để vừa giữ vững miền Bắc, vừa tăng cường quân đội chiến đấu ở miền Nam.
Sự rệu rã về yếu tố tinh thần
Mặc dù sức mạnh suy giảm nhưng quân số và vũ khí của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn có những điểm mạnh khi có đến 1.351.000 quân, 383 xe tăng (162 M48A3, 221 M41) và 1.691 thiết giáp chở quân M-113.
Không quân của họ cũng vượt trội với 550 máy bay chiến đấu A-1H, A-37 và F-5; 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1.000 trực thăng UH-1 và CH-47; khoảng 200 máy bay O1, O2 và U17; khoảng 150 máy bay vận tải C7, C-47, C-119 và C-130), 4 phi đội yểm trợ hỏa lực mặt đất, trang bị máy bay AC-119, AC-130 Spectre Gunship; các phi đội máy bay trinh sát, tình báo kỹ thuật, phi đội quan sát RC-119L.
Trong khi đó, Quân Giải phóng không thể triển khai lực lượng không quân ở miền Nam và lực lượng tăng thiết giáp cũng tương đối hạn chế. Ngay cả lực lượng bộ binh của quân Giải phóng cũng không thể đạt tới con số 1 triệu quân, kể cả ở thời điểm cao nhất.
Vậy tại sao mặc dù thực lực vẫn mạnh hơn nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn ở thế yếu hơn so với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam? Đó là do yếu tố con người. Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa chủ yếu là do yếu tố tâm lý, khi tinh thần của binh lính xuống rất thấp, số lượng đào ngũ tăng mạnh.
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết, sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và bắt đầu cắt giảm viện trợ quân sự thì tinh thần và sức chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hòa giảm sút rõ rệt.
Nạn đào ngũ là một vấn đề nghiêm trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Riêng từ tháng 4 tới tháng 12/1974 đã có 176.000 lính đào ngũ, rã ngũ, dù đã tăng cường thêm lính quân dịch thì tổng quân số vẫn giảm 20.000 người so với năm 1973.
Ngay cả trong những đơn vị tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tỷ lệ đào ngũ cũng tăng lên mức rất cao; ví dụ như: Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55% mỗi năm), tiếp theo là các đơn vị Dù (30%) và Thủy quân Lục chiến (15%).
Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã duy trì một lợi thế tâm lý mạnh mẽ, với những người lính tràn đầy tinh thần sẵn sàng hy sinh để cống hiến cho lý tưởng của mình là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước Việt Nam. Đó chính là ưu thế quyết định của họ.
Bên cạnh đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kiên trì công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước suốt 30 năm và không có lý do gì để từ bỏ nó khi mà quân đội của mình ngày càng hùng mạnh và có được lợi thế. Mọi người lính và chỉ huy quân Giải phóng đều cho rằng ngày chiến thắng đã cận kề, chỉ còn cách họ một trận đánh cuối cùng.
Sự tương phản giữa thế và lực giữa hai bên
Theo hồi ký của Đại tướng Văn Tiến Dũng thì cục diện chiến trường trước khi diễn ra Chiến dịch Mùa xuân năm 1975, đã chuyển biến theo hướng ngày càng bất lợi cho quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Tại Khu 9, các cuộc hành quân lấn chiếm bị thất bại, hơn 2.000 đồn bốt bị phá, 400 ấp chiến lược với gần 800.000 dân bị quân Giải phóng xóa bỏ; ở Khu 8 có hơn 200 ấp chiến lược với hơn 130.000 dân bị xóa bỏ; còn tại Khu 5, quân Giải phóng đã chuyển lên thế tiến công ngày càng mạnh, mở rộng bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh Long, Giá Vụt), xoá hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân.
Cuối năm 1974, quân Giải phóng chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối hợp với lực lượng địa phương mở chiến dịch Đường 14 – Phước Long giành thắng lợi lớn.
Trong hơn 20 ngày, quân Giải phóng đã diệt và bắt trên 5.400 quân địch, thu 3.000 súng các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long.
Thất bại này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân Sài Gòn, lực lượng chủ lực của Việt Nam Cộng hòa đã không còn đủ sức hành quân giải tỏa quy mô lớn để lấy lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng trên các địa bàn giáp ranh, dù Phước Long chỉ cách Sài Gòn vẻn vẹn 50km.
Quan trọng hơn, chiến thắng Đường 14 – Phước Long đã cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam xác định rõ quan điểm về cuộc chiến tranh Việt Nam và khả năng tái can thiệp quân sự của Mỹ.
Bị ràng buộc bởi đạo luật “War power act” do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1973 cấm tổng thống Hoa Kỳ sử dụng quân đội nếu không được sự chấp thuận của Quốc hội trước 6 tháng, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chỉ có thể đưa ra những hành động hạn chế.
Bộ Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương điều động một lực lượng đặc nhiệm hải quân gồm tàu sân bay Enterprise, tuần dương hạm Long Beach, hai tàu khu trục và một số tàu hậu cần rời cảng Subic của Philippines tiến vào Biển Đông.
Sư đoàn thủy quân lục chiến số 3 của Hải quân Hoa Kỳ đóng tại Okinawa cũng được đưa vào tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu.
Tuy nhiên, tất cả chỉ có vậy.
Ký giả Hoa Kỳ Alan Dawson nhận xét, khi Hoa Kỳ không thể tung quân trở lại miền Nam Việt Nam và chỉ hỗ trợ chính quyền Việt Nam Cộng hòa bằng lời nói chứ không phải bằng hành động quân sự thì niềm vui tràn ngập ở Hà Nội. “Nó chính lại là một trong những chiếc đinh cuối cùng đóng lên chiếc quan tài của quân đội Sài Gòn” – ông Alan Dawson nói.
Ngay sau thất bại Phước Long, cố vấn Mỹ John Pilger cũng đã tiên liệu trước về sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn sẽ diễn ra trong nay mai. Ông viết: “Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là ‘thủ đô tiêu dùng’ nhưng chẳng hề sản xuất được một mặt hàng nào ngoài chiến tranh”.
Hơn thế nữa, vị cố vấn Mỹ còn chua chát thừa nhận rằng, trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày. Vậy nên, sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn là một “thất bại được báo trước!”.
Thiên Nam
Phương Châm “Thần Tốc, Táo Bạo, Bất Ngờ, Chắc Thắng” Trong Tổng Tiến Công Mùa Xuân 1975
Thứ ba, 19 Tháng 4 2016 17:01
(LLCT) – Hội nghị Trung ương lần thứ 23 nhận định: “Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế sụp đổ đến nơi của nguỵ”(1). Bộ Chính trị khẳng định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể để chậm”(2).
Trung ương Đảng, Bộ Tổng tham mưu cùng quân và dân cả nước với tinh thần quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong một thời gian ngắn nhất, khi có thời cơ và điều kiện thuận lợi.
Sau chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Trị Thiên – Huế – Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, hàng chục tỉnh, thành phố, thị xã đã được giải phóng, gần một nửa binh lực quân nguỵ trên toàn miền Nam đã bị tiêu diệt và tan rã. Âm mưu co cụm chiến lược của chúng bị phá sản. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài Gòn bị hạn chế. Tình hình đó đã tạo ra một thời cơ chiến lược hết sức thuận lợi để bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Để bảo đảm thắng lợi nhanh chóng, Bộ Tổng tham mưu đã giải quyết hàng loạt vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề điều động và cơ động lực lượng cho chiến dịch. Ngoài những lực lượng có sẵn trên địa bàn, phải sử dụng một lực lượng cơ động từ xa. Quân đoàn 3 phát triển tiến công xuống đồng bằng Nam Trung Bộ rồi ngược lên Tây Nguyên hành quân thần tốc vào Nam Bộ. Quân đoàn 2 hành quân thần tốc gần một nghìn km trong 17 ngày đêm; tổ chức cho 2.376 xe các loại, trong đó có hơn 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100 pháo lớn từ 85 đến 155mm và hơn 100 khẩu pháo phòng không các loại vượt qua nhiều sông, suối, vừa hành quân vừa tiến hành đột phá tuyến phòng thủ của địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân. Đưa các lực lượng lớn kịp thời vào trận đánh một cách nhịp nhàng, đúng kế hoạch trong thời gian ngắn, bảo đảm bất ngờ, đó là điều kỳ diệu chưa từng thấy trong tổ chức và hành quân thần tốc, táo bạo của ta. Tập trung được lực lượng trong một thời gian nhanh chóng như vậy là một thành công đặc biệt, thể hiện một quyết tâm rất cao của quân và dân ta nhằm chớp thời cơ, thần tốc xốc tới giành thắng lợi quyết định.
Quá trình phát triển của cuộc tổng tiến công và nhất là thắng lợi mau chóng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã khiến cho Chính phủ và các nhà quân sự chiến lược Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn vô cùng sửng sốt, không sao hiểu nổi. Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, sau khi thoát thân ra được tàu Midway của Mỹ đã thốt lên rằng: ” Điều tôi khó hiểu nhất là cuộc chiến đấu đã kết thúc quá nhanh… Cách đây chưa đầy một tuần tôi còn yêu cầu chính quyền để cho tôi được tiếp tục chiến đấu… Mới một tuần trước đây thôi, tôi còn cho rằng không thể chấm dứt mau chóng như thế được”(3). Tại Oasinhtơn, khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, Kítxinhgiơ ngậm ngùi nói: “Tôi cứ tưởng rằng họ có thể thương lượng một sự đầu hàng, chứ đâu lại… tuyên bố đầu hàng. Tôi không ngờ sự việc diễn ra nhanh chóng đến mức đó”(4). Còn tướng Oétmolen thì thú nhận: “Đó là một đòn đau đớn… Tôi phải nói rằng quá trình sụp đổ đã nhanh hơn thực tế tình hình mà tôi đã nghĩ”(5).
Điều mà đối phương không hiểu đã là hiện thực. Thần tốc, mau lẹ là một phương châm giành thắng lợi của Đảng ta khi thời cơ đến trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xét toàn bộ cuộc chiến tranh, trên cơ sở đánh lâu dài, đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, Đảng ta luôn năng động, sáng tạo và nắm bắt thời cơ, tranh thủ thời gian giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là sự thực hiện đường lối và phương châm trên một cách đúng đắn, sáng tạo nhất. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cũng như các tướng lĩnh chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã theo sát tình hình, giải quyết thấu đáo các vấn đề chỉ đạo chiến lược, chọn đúng phương hướng, tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ, xác định đúng hình thức tác chiến và cách đánh linh hoạt, phát hiện thời cơ sau mỗi trận đánh, sau mỗi chiến dịch, để tổ chức chiến đấu, giành thắng lợi nhanh chóng và toàn diện. Một khi thời cơ xuất hiện thì yêu cầu thần tốc trở thành một nội dung trong phương châm chỉ đạo chiến lược, cũng như trong hành động quân sự.
Tuy nhiên, muốn đánh nhanh, thắng nhanh cũng cần phải táo bạo, bất ngờ. Táo bạo là một phương châm, là một yêu cầu quan trọng của hành động quân sự, là nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo tiến công. Trong lịch sử dân tộc, Lý Thường Kiệt đã hết sức táo bạo trong hành quân, khi ông thực hiện chiến lược “tiêu phát chế nhân”, đánh trước để chặn mũi nhọn của quân địch. Quang Trung – Nguyễn Huệ táo bạo, dám tiến công địch khi chúng còn rất mạnh nhưng thiếu phòng bị. Những đòn đánh tài tình, bất thần, táo bạo đó thường dẫn đến thắng lợi vang dội. Trong chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa (1789), Nguyễn Huệ đã táo bạo sử dụng lực lượng ít hơn để thực hiện đánh hiểm, điểm huyệt, đánh thọc sâu vào đại bản doanh, vào trung tâm đầu não quân Thanh, khiến chúng không kịp trở tay. Trong chiến dịch đó, Nguyễn Huệ đã đánh địch trên nhiều hướng, sử dụng những lực lượng tinh nhuệ thọc sâu, bất ngờ, chia cắt và tiêu diệt quân địch. Trong khi tướng giặc Tôn Sĩ Nghị đang để tâm ở Ngọc Hồi thì nghe tin đạo quân đô đốc Long đã từ phía Tây Nam hạ đồn Đống Đa và đang tiến thẳng về đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị, khiến hắn sợ mất mật, bủn rủn chân tay, rút kiếm chém xuống đất nói: “Sao mà thần đến vậy”; rồi “người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên, nhằm thẳng hướng Bắc mà chạy”. “Quân Thanh như bị sét đánh mang tai, nghe tin hoảng hồn, tan tác, tranh nhau bỏ chạy”(6).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cách đánh táo bạo, bất ngờ, mãnh liệt thể hiện rất rõ không chỉ ở tư tưởng chỉ đạo mà cả trong hành động quân sự tiến công của quân và dân ta. Chưa bao giờ ta sử dụng một lực lượng quân sự lớn mạnh như ở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tham gia Chiến dịch gồm 5 quân đoàn tinh nhuệ cùng các lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh còn có hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn thuộc các quân và binh chủng với nhiều vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại. Đây là một bước phát triển mới, một biểu hiện của cách đánh táo bạo của Bộ chỉ huy về việc sử dụng tập trung lực lượng trong một chiến dịch tiến công, nhằm tạo thế lực áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu não của chúng. Nếu như trước kia, trong chiến dịch Thăng Long, Nguyễn Huệ đã mạnh bạo sử dụng cùng một lúc hàng trăm voi chiến mang trên mình hoả hổ, hoả pháo khiến kỵ binh của quân Thanh vô cùng khiếp sợ, thì tại Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã sử dụng khoảng 400 xe tăng và xe bọc thép, hơn hai chục trung đoàn, lữ đoàn, tiểu đoàn pháo binh, tên lửa và cả lực lượng không quân tham gia chiến đấu, khiến quân địch hết sức bất ngờ.
Trong một thời gian ngắn ta đã thực hiện được một cuộc hội quân lớn như vậy, chứng tỏ sự quyết tâm, táo bạo và trình độ tổ chức, chỉ huy chiến dịch của Bộ thống soái tối cao và các tướng lĩnh của quân đội ta. Tập trung lực lượng, bất ngờ tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là một nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi. Nhưng vấn đề còn quan trọng hơn là sự độc đáo sáng tạo của cách đánh thần tốc, táo bạo và bất ngờ của nghệ thuật tiến công. Cả Quang Trung – Nguyễn Huệ khi tiến công Thăng Long và quân ta khi giải phóng Sài Gòn – Gia Định đều thực hiện thế trận tiến công toàn diện, trên nhiều mũi, nhiều hướng; thực hiện bao vây, chia cắt, thọc sâu nhanh chóng và mãnh liệt, tạo nên thế áp đảo; vừa tiêu diệt, làm tan rã, vừa bịt đường tháo chạy của địch.
Để thực hiện cách đánh “thần tốc, táo bạo và bất ngờ”, ta đã sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào các mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra khiến cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Cách đánh đó đã đưa lại hiệu quả chiến dịch lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.
Thần tốc và táo bạo luôn tạo ra những bất ngờ lớn đối với địch, đồng thời đánh bất ngờ thường giành thắng lợi mau chóng. Đánh địch bất ngờ là một nguyên tắc mà dân tộc ta đã vận dụng một cách sáng tạo. Trong điều kiện nước nhỏ, quân ít phải chống lại những kẻ thù xâm lược lớn, đông quân và tàn bạo thì vận dụng lối đánh bất ngờ “xuất kỳ bất ý” là hết sức cần thiết. Nhân tố bất ngờ được nhà Trần vận dụng thành công trong kháng chiến chống Mông – Nguyên, khi tập kích ở Đông Bộ Đầu giải phóng Thăng Long năm 1288, hoặc tiến công địch ở Bạch Đằng Giang năm 1288. Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ ” (Bình Ngô đại cáo). Lê Lợi cho rằng, nắm thời cơ đánh bất ngờ là phương châm hành động để “dùng sức một nửa mà công được gấp đôi”.
Đảng ta và quân, dân ta đã vận dụng và phát huy những kinh nghiệm đánh giặc của tổ tiên. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, điều kiện tương quan lực lượng đã khác trước. Quân ta đã vượt hẳn quân địch cả về thế và lực. Tuy nhiên, trong bất kỳ tình huống nào, yếu tố bất ngờ cũng là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh. Đòn “điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột, là một bất ngờ lớn đối với địch dẫn tới sự tan rã dây chuyền nhanh chóng của chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là một bất ngờ lớn hơn nữa mà địch tuy đã lường định nhưng vẫn không đoán được. Chúng đâu có ngờ ta sử dụng tới 5 quân đoàn và đơn vị tương đương tiến theo 5 hướng khác nhau trong đó có những mũi thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới. Chúng không ngờ ta đã huy động đến 400 xe tăng và xe bọc thép làm lực lượng đột kích, cùng 500 khẩu pháo lớn và hơn nửa triệu tấn vật chất kỹ thuật cho chiến dịch, chúng sửng sốt khi ta sử dụng cả lực lượng không quân. Và chúng càng không ngờ trận tiến công lại diễn ra và kết thúc nhanh chóng đến thế.
Như vậy, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng” là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động quân sự, là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh có tính truyền thống của dân tộc ta, đã trải qua một quá trình thừa kế, phát triển sáng tạo. Tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng là một trong những bài học quý của nghệ thuật quân sự Việt Nam thể hiện tiêu biểu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thắng lợi vĩ đại mùa Xuân 1975 chứng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, của các tướng lĩnh chỉ huy và sự nỗ lực phi thường của quân và dân cả nước. Chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4-1975 không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi nhất mà còn là nét nổi bật và đặc sắc nhất của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh.
Phát huy bài học “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để Quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trước tình hình mới. Muốn vậy, toàn quân cần quán triệt, thấu suốt quan điểm của Đảng về nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đồng thời, luôn có sự đổi mới và phát triển về nội dung và phương thức xây dựng Quân đội cho phù hợp trên nền tảng của tư duy mới về tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015
(1) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 (số 240-NQ/TW) ngày 25-12-1974.
(2) Hội nghị Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam (từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975).
(3) Lời thú nhận của vị tướng nguỵ Sài Gòn, Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1990.
(4) Tài liệu Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, t.1, TTXVN dịch, Hà Nội, 1971.
(5) Oétmolen tường trình của một quân nhân, Thư viện Quân đội dịch, Hà Nội, 1982.
(6) Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí , Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1984, tr.186.
Đại tá, PGS, TS Trần Nam Chuân
Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Bạn đang xem bài viết Đại Thắng Mùa Xuân 1975 trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!