Cập nhật thông tin chi tiết về Di Tích Lịch Sử Chiến Trường Điện Biên Phủ (Bổ Sung 23 Điểm Di Tích) mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ (Bổ sung 23 điểm di tích)
Di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ là bằng chứng lịch sử về chiến thắng lẫy lừng của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, thể hiện ý chí quyết tâm của cả dân tộc trước một lực lượng quân sự hùng mạnh, phương tiện chiến tranh hiện đại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, giải phóng hoàn toàn một nửa đất nước, mở đầu thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, góp phần thúc đẩy quá trình tan rã từng mảng lớn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Với ý nghĩa và tầm vóc đặc biệt, di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt năm 2009. Tuy nhiên, còn một số địa điểm in đậm dấu ấn của chiến dịch lịch sử này chưa được xác định kiểm kê, lập hồ sơ khoa học để xếp hạng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu bổ sung những địa điểm di tích Chiến trường Điện Biên vẫn tiếp tục được thực hiện.
23 điểm bổ sung vào di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ phân bố trên địa bàn: thành phố Điện Biên Phủ, huyện Tuần Giáo, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, có tổng diện tích các khu vực bảo vệ là: 545.505,75m2, trong đó: khu vực bảo vệ I: 349.708,72 m2, khu vực bảo vệ II: 195.797,03 m2.
1. Hệ thống di tích tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ
1.1. Di tích Đồi D (D1, D2, D3), (phường Mường Thanh và phường Tân Thanh, thành phố Điện Biên Phủ),
Đồi D1 đã được xếp hạng là di tích thành phần thuộc Di tích quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ. Riêng Đồi D2, D3 chưa được xếp hạng, vì vậy, đợt này được đề nghị bổ sung . Đồi D2, khu vực bảo vệ I là 8.279,85m2 (không có khu vực bảo vệ II). Đồi D3, khu vực bảo vệ I là 800m2, khu vực bảo vệ II là 7.600m2.
Thực dân Pháp đã xây dựng và biến cứ điểm Đồi D để trực tiếp khống chế khu Trung tâm và sân bay Mường Thanh. Đúng 17 giờ ngày 30/3/1954, pháo của ta đồng loạt dội xuống đồi D và các cao điểm phía Đông khu trung tâm Mường Thanh, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ binh tiến lên. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, quân ta giành giật với địch từng ụ súng, từng mét chiến hào. Sau 2 ngày, quân ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm D1, D2, D3.
1.2. Điểm Pháo 105mm của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (phường Thanh Bình, thành phố Điện Biên Phủ), có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 334,4m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Từ ngày 20 – 22/11/1953 đã có 6 tiểu đoàn dù của Pháp, với khoảng 4.500 lính có mặt tại Điện Biên Phủ. Sau khi chiếm đóng Điện Biên thành công, thực dân Pháp đã cho xây dựng nơi đây thành một Tập đoàn quân sự mạnh, gồm 49 cứ điểm chia thành 8 cụm nằm trong ba phân khu đó là phân khu Bắc, phân khu Trung Tâm và phân khu Nam.
1.3. Di tích Đồi Cháy (phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 23.856,1m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Trung đoàn 174, Đại đoàn 316 đã lấy đồi Cháy làm nơi đặt trận địa cối và Sở chỉ huy Trung đoàn. Đêm 06/5/1954, Trung đoàn 174 được lệnh công kích vào cứ điểm A1. Sau khi chiếm được A1, Trung đoàn 174 để lại một số đơn vị chốt giữ A1, còn lại thì rút quân về bên Đồi Cháy chỉnh đốn lại đội hình. Các đơn vị súng cối, pháo 75mm trên Đồi Cháy bắn yểm hộ cho các phân đội bộ binh tiến vào trung tâm của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
1.4. Di tích Đồi F (phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 59.535,97m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Cùng với đồi A1, đồi F là một trong các điểm cao quan trọng nhất, có tác dụng che sườn cho phân khu Đông, đồng thời cùng các điểm cao khác tạo thành bình phong bảo vệ cho khu trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Về phía ta, nếu chiếm được đồi F thì nơi đây có thể dùng làm trận địa hoả lực, đặt trung liên, đại liên, DKZ trực tiếp uy hiếp Al, C1, C2, phong toả cả bên sườn và chính diện trận địa Pháp về phía Đông, chi viện cho bộ binh xung phong thuận lợi. Đồi F được Quân đội ta làm chủ hoàn toàn vào rạng sáng ngày 07/5/1954.
1.5. Di tích Đồi E2 (phường Tân Thanh và phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 76.466,5m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Đồi E2 được chọn làm địa điểm để xây dựng Sở chỉ huy phía trước của Đại đoàn 312. Khi quân ta tấn công cứ điểm E1, địch điều lực lượng lên cứ điểm E2 để chiếm giữ nhưng đã bị pháo và súng cối của ta khống chế, buộc địch phải rút lui không thể tiến lên và chúng lại rút về cứ điểm E1.
2.2. Hệ thống di tích của Quân đội Nhân dân Việt Nam
2.1. Di tích Đài quan sát chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng (xã Mường Phăng, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 160m2 và khu vực bảo vệ II là 5.230,5m2.
Ngọn núi Pu Tó Cọ được Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chọn để đặt Đài quan sát, nằm gần Sở chỉ huy chiến dịch. Bộ chỉ huy chiến dịch đóng tại khu rừng Mường phăng cũng như Đài quan sát của Sở chỉ huy đóng trên đỉnh Pú Tó Cọ được giữ bí mật tuyệt đối, từ khi chuyển tới cho đến khi kết thúc chiến dịch.
2.2. Di tích Trận Hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu Km62 (xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 380,5m2 và khu vực bảo vệ II là 4.520,5m2.
Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu đóng ở đây trong vòng 13 ngày (từ 18 đến 30/01/1954) cùng với Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ.
2.3. Di tích Đèo Pha Đin (xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo), có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 137.083,4m2 và khu vực bảo vệ II là 137.686,53m2.
Đèo Pha Đin dài 32 km, điểm đầu thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên) và kết thúc ở xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu (tỉnh Sơn La). Đây là tuyến đường huyết mạch của Quân đội ta nối từ hậu phương ra chiến dịch. Với vị thế chiến lược, muốn vào Điện Biên Phủ thì bắt buộc phải qua đèo Pha Đin. Vì thế, địch cho máy bay tuần tiễu khu vực đèo hàng chục lần mỗi ngày, thả hàng trăm quả bom các loại (bom phá, bom nổ chậm, bom bi, bom Na-pan…). Đèo Pha Đin được ví như “túi bom”, có ngày địch ném xuống đây 160 quả bom, trung bình mỗi ngày chịu 16 tấn bom đạn. Tại đây, đã có hơn 8.000 thanh niên xung phong ngã xuống để đảm bảo thông xe, thông tuyến, phục vụ kịp thời cho việc chuyển quân, chuyển vũ khí, lương thực thực phẩm.
2.4. Di tích Đường Kéo pháo bằng tay (xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 27.239,5m2 và khu vực bảo vệ II là 15.557,2m2
Sau khi cân nhắc tình hình tại Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy mặt trận quyết định đưa pháo hạng nặng lên chiếm lĩnh trận địa. Những khẩu pháo nặng hàng tấn vượt qua núi cao, vực thẳm lên địa điểm tập kết chỉ dựa vào sức người. Với khẩu hiệu “mở đường thắng lợi”, sáng ngày 15/01/1954, lực lượng mở đường với hơn 5.000 người, với những công cụ thô sơ như dao, rìu, cuốc, xẻng, xà beng,… đào vào các sườn núi cao hiểm trở, vừa cắm mốc, vừa làm hầm trú ẩn, hầm công sự, trong khi quân địch luôn cho máy bay thả bom phá hủy… Sau 20 giờ, một con đường kéo pháo bằng tay dài là 15km, rộng 3m đã được hoàn thành vượt thời gian quy định 4 giờ.
2.5. Di tích Sở chỉ huy Chiến dịch ở hang Thẳm Púa (xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.869,3m2 và khu vực bảo vệ II là 16.586,75m2
Đây là vị trí đặt chân đầu tiên của Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ trong 32 ngày (từ 17/12/1953-17/01/1954). Tại đây, ngày 19/12/1953, Bộ chỉ huy chiến dịch đã triển khai kế hoạch đánh địch ở Lai Châu không cho rút về Điện Biên Phủ và bao vây quân địch ở Điện Biên Phủ, chốt chặt không cho chúng rút chạy về Thượng Lào.
2.6. Di tích nơi anh Bế Văn Đàn hy sinh (xã Mường Pồn, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 8.761,5m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Trận chiến 12/12/1953 ở Mường Pồn, trong một tình thế khẩn cấp, Bế Văn Đàn tuy đã bị thương nhưng vẫn dũng cảm nhấc hai chân súng tiểu liên đặt lên vai mình làm bệ đỡ để đồng đội siết cò, trút đạn về phía quân địch, bẻ gãy đợt tấn công. Bế Văn Đàn bị thêm hai vết thương nặng (do 2 chân súng tỳ lên vai), máu chảy ròng ròng, đã anh dũng hi sinh trong tư thế hiên ngang, hai tay còn giữ chặt chân súng… Tấm gương hi sinh oanh liệt của anh đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận kiên quyết xông lên đánh quân thù.
2.7. Di tích Trận địa cao xạ 37mm của Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367, Đại đoàn 351 ở Bản Mển (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên), có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.870,2m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Đây là vị trí trận địa pháo để khống chế và tiêu diệt địch tại phân khu Bắc (Độc lập và Bản Kéo), tạo điều kiện để bộ binh đánh vào sào huyệt của địch. Sau khi tiêu diệt được Độc Lập, Bản Kéo, trận địa pháo của Tiểu đoàn 394 chuyển đến bản Tâu, tiếp tục hiệp đồng với bộ binh tiêu diệt các cứ điểm thuộc Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
2.8. Di tích Trận địa cao xạ 37mm của Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367, Đại đoàn 351 ở Bản Tâu (xã Hua Thanh, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.972,15m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Vào lúc 15 giờ 30 phút, ngày 14/3/1954 khi các đơn vị bộ binh của Đại đoàn 308, 312 chuẩn bị tiến công cụm đồi Độc Lập, có hai tốp máy bay của địch từ hướng Đông bay tới. Tiểu đoàn pháo cao xạ 394, Trung đoàn 367 đã bắn rơi tại chỗ chiếc Hen Đi Vơ đi đầu. Những chiếc khác, trước lưới lửa mãnh liệt của pháo cao xạ ta, ném bom loạn xạ rồi tháo chạy. Đêm hôm đó, quân ta tiêu diệt cụm cứ điểm đồi Độc Lập.
2.9. Di tích Trận địa cao xạ 37mm của tiểu đoàn 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn 351 ở Bản Hồng Líu (phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 3.012,59m2(không có khu vực bảo vệ II)
Sáng ngày 14/3/1954, Tiểu đoàn 383 đã bắn cháy chiếc máy bay đầu tiên của Pháp trên bầu trời Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn 383 đã sử dụng pháo cao xạ 37mm, cùng các đơn vị khác khống chế bầu trời để bộ binh yên tâm tiêu diệt cứ điểm Độc Lập. Trong đợt tấn công thứ hai và thứ ba của chiến dịch, Tiểu đoàn 383 đã sử dụng pháo cao xạ 37mm khống chế bầu trời, tạo điều kiện cho bộ binh tiêu diệt các cứ điểm của Pháp, tiến đến tổng công kích vào chiều ngày 07/5/1954.
2.10. Di tích Khu vực tập kết Hậu cần tại ngã ba Tuần Giáo (thị trấn Tuần Giáo, huyện Tuần Giáo), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 50m2 (không có khu vực bảo vệ II). Đây là địa điểm tập kết lương thực, thực phẩm cho chiến dịch Điện Biên Phủ được vận chuyển đến từ các hướng.
2.11. Trận địa pháo 105mm của Đại đội 806, tiểu đoàn 594, Trung đoàn 54, Đại đoàn 351 ở xã Thanh Minh (xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ), diện tích khu vực bảo vệ I là 1.233,6m2 (không có khu vực bảo vệ II)
Tại đây, quân ta đã bắn những loạt đạn pháo 105mm đầu tiên vào cứ điểm Him Lam mở màn cho chiến dịch Điện Biên Phủ. 22 giờ 30 phút ngày 13/3/1954, Đại đoàn 312 đã tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam, xóa sổ Tiểu đoàn 3 của địch, sau đó, pháo 105mm đã tấn công vào cứ điểm Độc Lập, uy hiếp Bản Kéo.
2.12. Di tích Trận địa pháo H6 của tiểu đoàn 224, Trung đoàn 675, Đại đoàn 351 ở xã Thanh Minh (xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 1.108,76m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Đêm 06/5/1954, Tiểu đoàn H6 tham gia hỏa lực, bắn 3 đợt (618 viên) vào các mục tiêu, góp phần làm cho địch suy sụp tinh thần. Sáng sớm ngày 07/5/1954, Tiểu đoàn được phổ biến thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “hôm nay địch sẽ ra sức đối phó, tập trung lực lượng pháo kích và oanh tạc. Ta phải tích cực, cương quyết, bền bỉ đánh bại đợt phản kích cuối cùng của địch”. Đến 9 giờ 30, Tiểu đoàn được lệnh bắn 2 loạt đạn (144 viên) vào khu vực Mường Thanh, trong đó có cả 3 mục tiêu cấp trên đã chỉ định. Một cột lửa khói khổng lồ bao trùm khu vực mục tiêu. 15 giờ chiều, quân ta được lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận đánh thẳng vào Sở chỉ huy địch bắt sống tướng Đờ Cát và toàn bộ Ban tham mưu của Tập đoàn cứ điểm. Đến 24giờ, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc toàn thắng.
2.13. Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở Hang Huổi He (xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 443m2 và khu vực bảo vệ II là 1.443,5m2
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Sở chỉ huy của Bộ chỉ huy được đặt tại 3 địa điểm: Hang Thẳm Púa, Hang Huổi He và Mường Phăng. Hang Thẳm Púa là Sở chỉ huy đầu tiên của Bộ chỉ huy trong thời gian 32 ngày (từ 17/12/1953 – 17/1/1954). Hang Huổi He là Sở chỉ huy thứ 2 của Bộ chỉ huy chiến dịch trong thời gian 13 ngày (từ ngày 18 – 30/01/1954).
2.14. Di tích Sở chỉ huy Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 (phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ), có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.662,7m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Sở chỉ huy Trung đoàn 98 đóng ở Mường Thanh từ tháng 12/1953 – 5/1954. Tại đây, trong đợt tấn công thứ hai, Trung đoàn 98 nhận lệnh tiêu diệt cứ điểm C1, C2, ngoài ra còn có đơn vị khác đánh hiệp đồng. Tại cứ điểm Đồi C, các chiến sỹ Trung đoàn 98 đã đánh tan quân Pháp, mở toang cánh cửa phía Đông để tấn công vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
2.15. Di tích Trận địa pháo của Đại đội 815, Tiểu đoàn 383, Trung đoàn 367, Đại đoàn 351 (thuộc bản Púng Tôm, xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 2.624,2m2 và khu vực bảo vệ II là 8.512m2
Đúng 17giờ 13/3/1954, cùng với pháo 105 mm của ta, pháo cao xạ 37 mm của Đại đội 815, Tiểu đoàn 383 bắt đầu bắn những loạt đạn đầu tiên vào Him Lam, khống chế bầu trời, không cho máy bay địch tiếp tế và viện trợ. Chỉ trong vòng hơn 5 tiếng đồng hồ, Khẩu đội 3 cùng với 3 Khẩu đội khác của Đại đội 815 hiệp đồng với công binh, bộ binh tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Him Lam.
2.16. Di tích Trụ sở Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu (xã Mường Phăng, huyện Điện Biên) có diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 4.967,1m2, khu vực bảo vệ II là 18.183,2m2.
Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu, được thành lập trên cơ sở Ủy ban Kháng chiến hành chính các huyện, xã đã có từ trước (thành lập đầu tiên ở huyện Điện Biên và Tuần Giáo) vào tháng 12/1953, do đồng chí Hoàng Bắc Dũng, Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh làm Chủ tịch, 2 ủy viên là đồng chí Lò Văn Hặc và Hoàng Hoa Thưởng.
2.17. Di tích Tòa soạn tiền phương của Báo Quân đội Nhân dân (xã Mường Phăng, huyện Điện Biên), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 4.919m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Ngày 28/12/1953, báo Quân đội Nhân dân ra số đầu tiên phát hành tại mặt trận Điện Biên Phủ, mang số 116 lấy theo số báo ở hậu phương. Trải qua 140 ngày đêm, báo Quân đội Nhân dân tại mặt trận Điện Biên Phủ đã ra được 33 số, góp phần tuyên truyền, cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu cho toàn quân…
2.18. Di tích Sở chỉ huy Tiền phương của Tổng Cục cung cấp (xã Mường Phăng, huyện Điện Biên), diện tích khoanh vùng khu vực bảo vệ I là 13.666m2 (không có khu vực bảo vệ II).
Sở chỉ huy Tiền phương nằm ở sườn núi Lùng Pá Chả (tiếng Thái có nghĩa là “lán trong rừng tre”), hữu ngạn suối Ta Hiện, gần với Trụ Sở Ủy ban kháng chiến hành chính và Sở chỉ huy chiến dịch tại Mường Phăng. Tại đây, ta đã huy động được số lương – thực phẩm đáp ứng đủ nhu cầu cho chiến dịch.
Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, 23 điểm di tích chiến thắng Điện Biên Phủ (thành phố Điện Biên Phủ, huyện Tuần Giáo, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 2367/QĐ-TTg ngày 23/12/2015 xếp hạng bổ sung vào Hồ sơ di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ (đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1272/QĐ-TTg ngày 12/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ)./.
Chiến Dịch Lịch Sử Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào – Việt, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng. Đối với đế quốc Pháp – Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á.
Bộ đội ta đánh chiếm hầm Đờ Cát. Ảnh tư liệu
Thấy rõ vị trí quan trọng đó của Điện Biên Phủ, ngày 20-11-1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và phi đội không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200 tên. Chúng bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 40 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm, mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. Tám cụm cứ điểm họp thành ba phân khu, 80% lực lượng không quân ở Đông Dương và nhiều loại vũ khí hiện đại khác của Pháp và Mỹ đã được đưa vào tác chiến ở Điện Biên Phủ.
Với số quân đông, hoả lực mạnh, công sự vững chắc, các tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là “một tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm”. Xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng thực hiện ý đồ thu hút chủ lực ta lên đó để tiêu diệt, rồi chuyển sang tiến công ta.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.
Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy trưởng mặt trận.
Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, nhân dân ta đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch.
Đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.
Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn địch và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh, giáng một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch. Trong đợt tiến công mở đầu này, Phan Đình Giót đã nêu gương chiến đấu dũng cảm, lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo điều kiện cho toàn đơn vị tiến lên tiêu diệt địch.
Ngày 16-3-1954, địch cho 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Ngày 30-3-1954, ta mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân khu trung tâm.
Đánh vào khu đông, ta tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.
Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 100 máy bay oanh tạc chiến đấu, 50 máy bay vận tải và cho Pháp mượn 29 máy bay C119 có cả người lái; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương”.
Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Bộ đội ta đã có những cố gắng phi thường, chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công rực rỡ. Tuy vậy, do cuộc chiến đấu liên tục, kéo dài và ác liệt, khó khăn về cung cấp tiếp tế cũng tăng thêm nên đã phát sinh tư tưởng tiêu cực, ngại thương vong, mệt mỏi.
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, một đợt sinh hoạt chính trị được tiến hành sâu rộng từ các cấp uỷ đến chi bộ, từ cán bộ đến chiến sĩ trong tất cả các đơn vị trên toàn mặt trận. Tư tưởng hữu khuynh tiêu cực bị phê phán sâu sắc tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng được phát huy mạnh mẽ.
Ngày 1-5-1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta lần lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía đông và phía tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của địch.
Ngày 4-5-1954, địch thả tiểu đoàn dù dự bị cuối cùng xuống Điện Biên Phủ.
Ngày 7-5-1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, gồm 21 tiểu đoàn, trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh cơ động chiến lược, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 353 sĩ quan từ thiếu uý đến thiếu tá, 16 trung tá và đại tá, 1 thiếu tướng. Tổng cộng, số lượng địch bị tiêu diệt và bắt sống tại Điện Biên Phủ bằng 4% quân số địch ở Đông Dương, 20% lính Âu – Phi. Ta hy sinh 4.200 đồng chí, mất tích 792 đồng chí, bị thương 9.118 đồng chí.
Ta thu được 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 20 tấn thuốc quân y, 40 tấn đồ hộp, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các loại.
Tại các chiến trường phối hợp trong toàn quốc, ta tiêu diệt 126.070 tên địch.
Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng của nhân dân ta. Điện Biên Phủ ghi một mốc son chói lọi vào lịch sử dân tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt Nam.
Trong con mắt của các học giả nước ngoài, “Điện Biên Phủ là trận Vanmy của các dân tộc da màu”, “trên thế giới, trận Oatéclô cũng ít có tiếng vang hơn. Điện Biên Phủ thất thủ đã gây ra những nỗi kinh hoàng ghê gớm, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của nền cộng hoà. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn đang âm vang”.
– Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.5, tr.403.
– Chiến thắng Điện Biên Phủ – mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.847.
– Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, chúng tôi tr.390-440.
– Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.143-144.
– Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên – Bộ Tư lệnh Quân khu 2– Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến thắng Điện Biên Phủ – mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.847.
– Jules Rây: Tiếng sấm Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr.284.
Chiến Thắng Điện Biên Phủ
Ba tiếng Điện Biên Phủ đã trở thành niềm tự hào và biểu tượng của sức mạnh Việt Nam.
‘Chín năm làm một Điện Biên’
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp.
Trong số đó, chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông (năm 1947) là đòn quyết định làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng và đầu não kháng chiến; Chiến thắng Biên giới (năm 1950) đã tạo ra một bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới, chuyển hẳn sang liên tục tấn công và phản công địch.
Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố.
Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu-Đông năm 1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương.
Theo đánh giá của tướng H.Navarre và các nhà quân sự Pháp-Mỹ thì “Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông Dương và cả miền Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc. Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam”.
Trước âm mưu của địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân với phương châm: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.
Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châu và Thượng Lào, ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ với dự định xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh.
Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc.
Đối với địch, đây có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á. Do đó, chúng liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Cụ thể, chúng đã cho tập trung ở đây 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới.
Theo đó, Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava. Và thực dân Pháp tin chắc lòng chảo này sẽ “nghiền nát” quân đội Việt Nam.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.
Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy và Chỉ huy trưởng mặt trận.
Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.
Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng.”
Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000 quân. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch.
Trên 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch…
Đến đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.
‘Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng’
17 giờ ngày 13/3/1954, quân ta tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử bắt đầu.
Ngay phút đầu, trong trận tấn công cụm cứ điểm Him Lam, pháo binh ta đã lập công, bắt chết tên quan tư Paul Pégot – chỉ huy Him Lam và tên quan năm Gôxê – chỉ huy phân khu trung tâm.
Sau 2 giờ chiến đấu, ta tiêu diệt 2 cứ điểm. Tại cứ điểm thứ 3 phía Tây Bắc Him Lam, từ một lô cốt ngầm, địch bắn ra ác liệt. Một chiến sỹ mình đầy thương tích của ta đã trườn lên, dồn hết sức lao vào lấp lỗ châu mai, dập tắt hỏa điểm địch. Đó chính là anh hùng Phan Đình Giót.
Trận đầu phải thắng, đó là truyền thống của quân đội ta. Trong ngày mở màn chiến dịch, ta tiêu diệt Him Lam, diệt 300 tên địch, bắt sống 200 tù binh.
Liên tiếp các ngày từ 14 đến 17/3, ta tiêu diệt nhanh gọn 2 cụm cứ điểm kiên cố vào bậc nhất của địch, đồng thời làm tan rã một tiểu đoàn địch. Quân Pháp ở vị trí Bản Kéo sợ hãi kéo cờ trắng ra hàng. Cánh cửa phía Bắc vào Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị phá toang.
Với khí thế phấn khởi đánh thắng trận đầu, quân ta tấn công đợt 2 vào 5 cao điểm phía Đông then chốt phòng ngự của địch. Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận.
Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp hàng trăm máy bay chiến đấu và vận tải; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương.”
Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Từ ngày 30/3 đến 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm, thắt chặt vòng vây, chia cắt và kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho các cứ điểm.
Đây là đợt tấn công dài ngày nhất, quyết liệt nhất, ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.
Từ ngày 1/5/1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Đêm ngày 6/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm kiên cố của địch. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng.
17 giờ 30 ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ôtô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là biểu hiện rực rỡ sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta. Mới gần 10 tuổi, quân đội ta đã ghi trên Quân kỳ hàng nghìn chiến công, mà đỉnh cao và đời đời bất diệt là Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Đây là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Thời gian đã lùi xa, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” mãi mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam; là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ, động viên to lớn, đồng thời để lại nhiều bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.
Diễn biến chính của chiến dịch Điện Biên Phủ
Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến – Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. (Nguồn: TTXVN)
Ngày 20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, manh nha ý định xây dựng căn cứ quân sự ở đây và ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam chiếm đóng Tây Bắc.
Ngày 3/12/1953, Navarre chính thức quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau khi nghiên cứu, xem xét và cân nhắc những điều kiện thuận lợi tại thung lũng lòng chảo phía Tây Bắc Việt Nam.
Quyết định này đưa tới sự ra đời của tập đoàn cứ điểm “chưa từng thấy” ở Đông Dương với 49 cứ điểm mạnh mẽ, được đầu tư viện trợ tối đa và binh lực và hỏa lực và sự dẫn dắt, chỉ huy của Đại tá De Castries.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông- Xuân 1953-1954 của ta với Thực dân Pháp, đồng thời cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng tư lệnh mặt trận.
Ngày 26/1/1954, Tổng tư lệnh mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc.”
Ngày 31/1/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ chuyển vị trí đóng quân đến khu rừng Mường Phăng trên đại điểm xã Mường Phăng, huyện Điện Biên cách Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 40km đường bộ và khoảng hơn 15km đường chim bay.
Ngày 13/3/1954, sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, ta chính thức mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ tại Trung tâm đề kháng Him Lam, một trong những cụm cứ điểm mạnh nhất của Pháp nằm phía Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm.
Ngày 31/3/1954, Đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh, thừa cơ tiến vào khu trung tâm, nơi có Sở chỉ huy của De Castries.
Ngày 1/5/1954, Đợt tấn công cuối cùng nhằm kết thúc số phận của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tiến hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất là tiêu diệt nốt A1 và C2, thừa cơ tiến hành tổng công kích. 6/5/1954, vào lúc 20 giờ 30 phút, khối bộc phá 960kg nổ trên Đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Ngày 7/5/1954, sau khi mở được chiếc chìa khóa cuối cùng A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De Castries. Không có sự kháng cự, De Castries cùng Bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng.
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneva được ký kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương.
Thứ trưởng Thường trực Bùi Thanh Sơn làm việc tại tỉnh Điện Biên
TGVN. Ngày 22/8, Đoàn công tác Bộ Ngoại giao do Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn làm …
Điện Biên Phủ: Kể chuyện ở thời bình
(TGVN).Câu chuyên được kể ở Hà Nội vào những ngày tháng bình yên sau 65 năm trận chiến “chấn động địa cầu”. Các diễn giả …
De Gaulle và Việt Nam – thêm một góc nhìn để hiểu về chiến thắng Điện Biên Phủ
Tối 6/5, tại Hà Nội, ấn bản tiếng Việt của cuốn sách De Gaulle và Việt Nam (1945 – 1969) của chúng tôi Pierre Journoud đã …
Quân Khu 2 – Chiến Thắng Điện Biên Phủ – Mốc Son Chói Lọi Của Lịch Sử Dân Tộc
QK2 – Hôm nay, ngày 7-5, ngày này 66 năm về trước, quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, anh dũng của quân và dân ta. Đây là một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Từ năm 1953, tình hình chiến trường Đông Dương có nhiều thay đổi bất lợi cho thực dân Pháp. Lợi dụng lúc thực dân Pháp gặp khó khăn, Mỹ đã tìm cách nhảy vào Việt Nam, tăng cường viện trợ, cơ quan Viện trợ quân sự MAAG ở Việt Nam. Tháng 7-1953 “Kế hoạch Na-va” được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua hòng “tìm cách thoát ra khỏi cuộc chiến tranh ở Đông Dương trong danh dự” trong vòng 18 tháng. Theo kế hoạch này chủ trương tăng quân Pháp và quân ngụy, rút bớt lực lượng chiến đấu về tập trung xây dựng thành lực lượng cơ động mạnh. Trong Đông Xuân 1953-1954, quân Pháp giữ thế phòng ngự, tránh những cuộc đụng độ trên diện rộng với ta ở miền Bắc, tập trung đánh chiếm miền Trung và Nam Đông Dương. Sang Đông Xuân 1954-1955, sẽ đem toàn lực ra quyết chiến với chủ lực ta ở miền Bắc, giành thắng lợi quyết định.
Về phía ta, dựa trên phương hướng chiến lược của Hội nghị lần thứ IV Trung ương Đảng họp tháng 1-1953 là: “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, đánh chắc thắng”, tháng 9-1953, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng mà địch tương đối yếu, buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ. Bộ Chính trị nhấn mạnh phương châm hành động là “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến là: “Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt; chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh; giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán…”. Tây Bắc là một hướng chiến lược Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã lựa chọn.
Để phá tan kế hoạch Na-va, mở đầu kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, ta chủ động mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, lấy Tây Bắc làm hướng chính. Tháng 11-1953, Đại đoàn 316 được lệnh tiến quân lên Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, phần đất cuối cùng còn lại ở Tây Bắc nằm trong tay quân đội Pháp.
Bị uy hiếp ở chỗ sơ hở nhất, phát hiện ra Đại đoàn 316 đang hành quân hướng lên Tây Bắc, sợ mất Tây Bắc và hòng che chở cho Thượng Lào, trong 3 ngày từ 20 đến 22-11-1953, tướng Na-va vội vã tiến hành cuộc hành binh “Chuột biển” (casta), cho 6 tiểu đoàn dù thiện chiến và một số đơn vị pháo binh nhảy dù chiếm đóng thung lũng Điện Biên Phủ. Ngày 3-12-1953, Na-va hạ quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh và quyết định: Tiếp nhận giao chiến với chủ lực Việt Minh ở Tây Bắc, lấy Điện Biên Phủ làm trung tâm. Ngày 5-12-1953, các đơn vị đồn trú ở Điện Biên Phủ được chuyển thành “Binh đoàn tác chiến Tây Bắc” (GONO) và ngày 7-12-1953 Na-va quyết định rút toàn bộ quân lính từ Lai Châu về tăng cường cho Điện Biên Phủ.
Trước tình hình đó, Tổng Quân ủy ta nhận định: “Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta và chủ trương: Giữ địch ở lại Điện Biên Phủ và ta có thể đánh địch ở Điện Biên Phủ”.
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp nghe Tổng Quân uỷ báo cáo quyết tâm và phương án tác chiến. Sau khi phân tích kỹ tình hình địch, ta, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và phương án tác chiến của Tổng Quân uỷ.
Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho bộ đội chủ lực các mặt trận nhanh chóng bước vào tiến công địch. Các đại đoàn chủ lực được lệnh tiến quân lên Tây Bắc. Ngày 10-12-1953 ta tiến công địch ở Lai Châu, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 bắt đầu.
Diễn biến Chiến dịch Điện Biên Phủ
Theo kế hoạch của Tổng Quân ủy, Sư đoàn 316 đang đóng quân ở Thanh Hóa hành quân theo dọc Sông Mã, tiến về Tây Bắc tiêu diệt địch ở thị xã Lai Châu.
Để ngăn chặn bộ đội ta tiến đánh thị xã Lai Châu, ngày 2/11/1953, Na-va chỉ thị cho tướng Cô-nhi: từ ngày 15 đến ngày 20/11/1953, chậm nhất là ngày 1/12/1953, phải đánh chiếm Điện Biên Phủ để thiết lập một cứ điểm, ngăn chặn Việt Minh, bảo vệ cho Thượng Lào.
Cuộc hành quân đánh chiếm Điện Biên Phủ của Pháp có bí danh là ”Hải Ly”, Chỉ huy là tướng Jean Gilles (Jin Gin- lơ). Ngày 20/11/1953, Pháp điều động 63 chuyến máy bay C-47 Dakota thả 3.000 lính dù đầu tiên xuống Điện Biên Phủ. Tại đây Pháp xây dựng thành 49 cứ điểm, 3 phân khu trung tâm, 8 trung tâm đề kháng gồm 17 tiểu đoàn, 7 đại đội độc lập với tổng số 16.200 quân tinh nhuệ nhất lúc bấy giờ. Pháp muốn kết thúc chiến tranh có lợi theo cách của Pháp.
Tướng Cô-nhi nhấn mạnh: Điện Biên Phủ là một căn cứ bộ binh, không quân lý tưởng, nó là “chiếc chìa khoá” ở Thượng Lào của Pháp.
Lực lượng Pháp được tổ chức thành 3 phân khu:
Một là, Phân khu phía Bắc, gồm đồi Him Lam, đồi Độc lập có nhiệm vụ án ngữ phía bắc, ngăn chặn con đường từ Lai Châu về Điện Biên Phủ.
Hai là, Phân khu Trung tâm, gồm các điểm cao phía đông, sân bay Mường Thanh, và các cứ điểm phía tây Mường Thanh; đây là khu vực mạnh nhất của quân Pháp, tập trung hai phần ba lực lượng (8 tiểu đoàn, gồm 5 tiểu đoàn chốt giữ và 3 tiểu đoàn cơ động).
Ba là, Phân khu phía Nam: thuộc cụm cứ điểm và sân bay Hồng Cúm
Ngày 2/12/1953, tướng Nava hống hách ra lệnh cho cấp dưới chấp nhận giao chiến với Việt Minh tại Điện Biên Phủ.
Về phía ta
– Sau 8 năm kháng chiến, lực lượng đã mạnh lên gấp nhiều lần. Kể từ sau năm 1950 do nối thông biên giới với Trung Quốc, lại được sự viện trợ quân sự to lớn của Trung Quốc và Liên Xô, quân đội ta đã lớn mạnh rất nhiều, với các sư đoàn (đại đoàn) bộ binh và các trung đoàn pháo binh, công binh đã có kinh nghiệm đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn của quân Pháp trong phòng ngự kiên cố.
Tuy vậy, trong lịch sử đánh Pháp, đến lúc này, ta chưa đánh một tập đoàn cứ điểm nào của Pháp; địa bàn Điện Biên Phủ xa hậu phương 500 km, lương thực, thực phẩm không đủ, đường tiếp tế duy nhất lên Điện Biên Phủ là đường số 6, thì bị Pháp dùng pháo binh và máy bay khống chế. Đưa một khối lượng cơ sở vật chất đến đây quả thực là một việc phi thường.
Bộ Tổng Tư lệnh nhìn nhận rằng: trận Điện Biên Phủ là cơ hội đánh tiêu diệt lớn, tạo nên chiến thắng vang dội để chấm dứt kháng chiến trường kỳ; quyết định: ”Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh, trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương”. Vì vậy, từ phương châm chọn nơi địch yếu nhất, sơ hở nhất để đánh, 16 ngày sau Tổng Quân uỷ quyết định thay đổi kế hoạch chọn chỗ mạnh nhất của địch để đánh.
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị đồng ý mở chiến dịch Điện Biên Phủ, với phương châm: “Đánh nhanh thắng nhanh”.
– Bộ Tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ được thành lập, Bác Hồ giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Đảng uỷ, kiêm Tư lệnh Mặt trận, trước khi ra trận Bác nói: “Bác giao cho chú toàn quyền, tướng quân tại ngoại, trận này chắc thắng thì đánh, không chắc thắng không đánh”.
Ngày 25/1/1954, tại cuộc họp Đảng ủy Mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp suy nghĩ: phương án ”Đánh nhanh thắng nhanh” mang nhiều yếu tố chủ quan, không đánh giá đúng tình hình thực lực của hai bên, không thể đảm bảo chắc thắng. Cuối cùng Đại tướng quyết định dừng trận đánh, kéo pháo ra, chuyển phương án từ “đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc”
Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia thành ba giai đoạn
Giai đoạn 1:Từ 13/3 đến 17/3/1954, ta tiêu diệt phân khu phía Bắc của Pháp, lực lượng tiêu diệt các cứ điểm Him Lam, đồi Độc Lập và trung tâm đề kháng Bản Kéo.
Quân ta đã tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; Pi rốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.
Giai đoạn 2: từ 30/3 đến 30/4, ta tiến đánh phân khu trung tâm, đặc biệt là các điểm cao quan trọng phía Đông, vây lấn bóp nghẹt Tập đoàn cứ điểm.
Quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho Tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.
Giai đoạn 3: từ ngày 1 đến 7/5/1954. quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Kết quả chiến dịch
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, là trận đầu đánh thắng Mỹ, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào năm 1975
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Về nghệ thuật chiến dịch, nổi lên là: Đã xác định phương châm và cách đánh chiến dịch đúng đắn, tạo ưu thế, thế trận vững chắc, đảm bảo sự chắc thắng cho từng trận đánh trong điều kiện địch có ưu thế về hỏa lực, xe tăng và máy bay; triển khai thực hiện tác chiến hiệp đồng binh chủng (bộ binh, pháo binh, pháo phòng không); xây dựng trận địa tiến công và bao vây, tạo và nắm thời cơ; phát triển chiến thuật đánh địch trong công sự vững chắc… Về chiến thuật, đó là cách vận dụng linh hoạt cách thức chiến đấu, tiến công trận địa bằng sự hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh và pháo binh; vừa vây lấn vừa tiến công, đánh chiếm các cứ điểm, cụm cứ điểm, vừa phòng ngự, bám trụ đánh địch phản kích, tạo bàn đạp đánh chiếm các mục tiêu tiếp theo; kết hợp tác chiến giữa tiến công và phòng ngự là hình thức tác chiến mới, biểu hiện sự phát triển linh hoạt, sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.
K.B (th)
Bạn đang xem bài viết Di Tích Lịch Sử Chiến Trường Điện Biên Phủ (Bổ Sung 23 Điểm Di Tích) trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!