Xem Nhiều 3/2023 #️ Giải Vbt Ngữ Văn 9 Bài Chuyện Người Con Gái Nam Xương # Top 7 Trend | Caffebenevietnam.com

Xem Nhiều 3/2023 # Giải Vbt Ngữ Văn 9 Bài Chuyện Người Con Gái Nam Xương # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Vbt Ngữ Văn 9 Bài Chuyện Người Con Gái Nam Xương mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Câu 1 (trang 23 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Tìm bố cục của truyện

Phương pháp giải:

– Đọc lại văn bản, trả lời ý thứ nhât bằng cách khoanh tròn chữ cái đứng trước ý trả lời đúng.

– Sau đó nêu khái quát nội dung từng phần.

Lời giải chi tiết:

– Văn bản chia làm: B. 3 phần

– Giới hạn và nội dung:

+ Phần 1 (từ đầu đến “như đối với cha mẹ đẻ mình”): Cuộc sống của Vũ Nương khi được gả về nhà Trương Sinh cho đến trước khi Trương Sinh trở về.

+ Phần 2 (tiếp theo đến “nhưng việc trót đã qua rồi”): Số phận oan khuất của Vũ Nương.

+ Phần 3 (đoạn còn lại): Vũ Nương được giải oan.

Câu 2 Câu 2 (trang 23 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong hoàn cảnh nào? Ở từng hoàn cảnh, Vũ Nương bộc lộ những đức tính gì?

Phương pháp giải:

Chú ý các tình huống:

– Ở nhà

– Khi tiễn chồng đi

– Khi vắng chồng

– Khi chồng trở về ghen tuông

Lời giải chi tiết: Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong các hoàn cảnh khác nhau:

– Trong cuộc sống vợ chồng: “giữ gìn khuôn phép”.

– Khi tiễn chồng đi lính: nàng không trông mong chồng “đeo được ấn phong hầu…chỉ xin ngày về được bình an.”

– Khi xa chồng: Vũ Nương là người vợ thủy chung , người con dâu hiếu thảo, người mẹ đảm đang.

– Khi bị chồng nghi oan:

+ Bày tỏ lòng mình để níu kéo hạnh phúc gia đình.

Câu 3 Câu 3 (trang 24 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất? Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?

Phương pháp giải:

Suy nghĩ về nguyên nhân Vũ Nương chịu oan khuất. Sau đó nêu cảm nhận của em về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.

Lời giải chi tiết:

– Nguyên nhân gián tiếp:

+ Chiến tranh phong kiến.

+ Xã hội phong kiến thối nát, bất công, trọng nam khinh nữ.

– Nguyên nhân trực tiếp:

+ Do tính đa nghi, gia trưởng độc đoán của Trương Sinh.

+ Do lời nói ngây thơ của bé Đản.

Câu 4 Câu 4 (trang 24 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Hãy nêu nhận xét về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật và những lời đối thoại trong truyện?

Phương pháp giải:

– Chú ý chi tiết Trương Sinh vô học và đa nghi. Khi trở về, đứa con nói có một người đàn ông khác đêm nào cũng đến. Trương Sinh ghen tuông, nhưng không nói rõ lí do. Khi vợ chết, vô tình, nguyên nhân được làm rõ: người đàn ông đó chỉ là cái bóng.

– Em xem lại các đoạn đối thoại (chủ yếu là giữa Trương Sinh và con trai), chỉ ra giá trị nghệ thuật của chúng.

Lời giải chi tiết:

– Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có ý nghĩa, có tính chất quyết định đến quá trình diễn biến của truyện cho hợp lí, tăng cường tính bi kịch và cũng làm cho truyện trở nên hấp dẫn và sinh động hơn.

– Truyện có nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa quá trình tâm lí và tính cách nhân vật.

Câu 5 Câu 5 (trang 25 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện. Đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, tác giả nhằm thể hiện điều gì?

Phương pháp giải:

Chú ý đoạn nói về Phan Lang và Linh Phi cho đến hết văn bản. Tìm các yếu tố kì ảo. Các yếu tố này thể hiện rõ quan niệm của tác giả về nhân vật Vũ Nương, về khát vọng hạnh phúc của nàng, về xã hội phong kiến đã không có chỗ cho một người thùy mị, nết na như nàng.

Lời giải chi tiết:

– Những yếu tố kì ảo:

+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.

+ Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương, người cùng làng đã chết, rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế.

+ Hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn tràng giải nỗi oan cho nàng ở bến Hoàng Giang lung linh, huyền ảo, rồi bỗng chốc “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.

– Ý nghĩa:

+ Làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương.

+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng trong cuộc đời.

+ Khẳng định rằng: chốn trần gian không phải là nơi dung thân cho người phụ nữ.

chúng tôi

Chuyện Người Con Gái Nam Xương

Tìm bố cục của văn bản.

Hướng dẫn giải

Đoạn 1: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh, phẩm hạnh của Vũ Nương trong thời gian xa cách (từ đầu đến “cha mẹ đẻ mình”). Đoạn 2: Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương (Qua năm sau… trót đã qua rồi). Đoạn 3: Cuộc gặp gỡ kì lạ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi. Vũ Nương được minh oan nhưng không trở lại nhân gian được nữa. (còn lại).

Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Ở mỗi hoàn cảnh, Vũ Nương lại bộc lộ những đức tính tốt đẹp.

Hướng dẫn giải

Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong các hoàn cảnh khác nhau. Trong hoàn cảnh nào nàng cũng thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Trong cuộc sống vợ chồng bình thường nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không lúc nào để vợ chồng phải đến thất hòa”. Lời dặn dò khi chồng đi lính thật ân tình, đằm thắm, làm mọi người xúc động.

Khi chồng đăng lính, nàng không nguôi thương nhớ và chỉ mong chồng bình yên trở về. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung yêu chồng tha thiết. Nỗi buồn nhớ của nàng cứ dài theo năm tháng. Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tình chăm sóc mẹ chồng yếu đau. Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi chết thể hiện sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình.

Khi chồng nghi oan cho minh, nàng cô” tìm cách thanh minh, nhưng không kết quả. Nàng đã tìm đến cái chết để giải thoát. Nhìn chung trong các hoàn cảnh, Vũ Nương thể hiện là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, có đủ các phẩm chất mà xã hội phong kiến đòi hỏi ở người phụ nữ: công, dung, ngân, hạnh. Nàng chỉ có một mục đích duy nhất là vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Những ngươi như nàng lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc, nhưng lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự.

Tóm lại, qua các hoàn cảnh, nhân vật Vũ Nương hiện lên là một người phụ nữ hiền thục, một người vợ thuỷ chung, yêu thương chồng con hết mực, một người con dâu hiếu thảo, hết lòng vì cha mẹ, gia đình, đồng thời cũng là người phụ nữ coi trọng danh dự, phẩm hạnh, quyết bảo vệ sự trong sạch của mình.

Vì sao Vũ Nương phải chịu đựng nỗi oan khuất? Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?

Hướng dẫn giải

Nỗi oan khuất của Vũ Nương do nhiều nguyên nhân đưa đến:

Nguyên nhân trực tiếp là do Trương Sinh quá đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán. Trương Sinh đã không cho Vũ Nương cơ hội trình bày, thanh minh, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, nhất quyết không nói ra duyên cớ để có cơ hội minh oan, mắng nhiếc và đuổi nàng đi. Trương Sinh đã trở thành một kẻ vũ phu thô bạo đã bức tử Vũ Nương.

Nguyên nhân gián tiếp là do xã hội phong kiến – Một xã hội gây ra bao bất công ấy, thân phận người phụ nữ thật bấp bênh, mong manh, bi thảm. Họ không được bênh vực chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, …

Qua đó, người đọc có thể hiểu thêm về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Họ luôn thủy chung, son sắt, tảo tần, hi sinh vì gia đình. Bi kịch của Vù Nương là lời tố cáo xã hội phong kiên trọng nam khinh nữ, trọng phú khinh bần; người phụ nừ không dưực chở che, bảo vộ. Bi kịch này cũng là lời tố cáo chiến tranh. Tác phẩm bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ thời xưa.

Hãy nêu nhận xét về cách dẫn tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật và lời đối đáp trong truyện.

Hướng dẫn giải

Cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện tạo kịch tính, lôi cuốn. Từ những chi tiết hé mở, chuẩn bị thắt nút đến khi nút thắt ngày một chặt hơn đã tạo cho truyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Trương Sinh ít học, đa nghi. Chi tiết “Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” là một chi tiết cài đặt sẵn, một chi tiết quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Trương Sinh tin vào lời nói hồn nhiên của con trỏ một cách vội vàng, không suy xét trước sau. Vốn sẵn có tính hay ghen và nghi ngờ nên càng khiên Trương Sinh tin là có thật. Chàng đã không cho vợ có cơ hội thanh minh. Tinh huống bất ngờ và cũng rất khó thanh minh cho Vũ Nương. Nàng chỉ còn cách giải oan duy nhất là tìm đôn cái chết. Lời nói hồn nhiên của đứa trẻ đã gây ra mối nghi ngờ của Trương Sinh,và cũng chính đứa trẻ sau này đã giải mối nghi ngờ đó một cách tình cờ và dễ dàng. Trương Sinh tỉnh ngộ thì đã muộn. Tình tiết trong câu chuyện diễn ra một cách tự nhiên, hợp lí, hấp dẫn.

Những đoạn đối thoại, độc thoại của nhân vật được sắp xếp rất đúng chỗ, làm cho câu chuyện kể trở nên sinh động, góp phần khắc họa tâm lý nhân vật, tính cách nhân vật (lời nói của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, có tình có lý, lời đứa trẻ hồn nhiên, thật thà…). Tuy những yếu tố đối thoại mới chỉ mức sơ khai, ban đầu, nhưng nó đã làm cho nhân vật có tiếng nói. Những lời độc thoại dài góp phần khẳng định những phẩm chất tốt đẹp và làm bộc lộ tính cách của nhân vật. Đoạn đối thoại giữa đứa con và Trương Sinh vừa đẩy truyện lên cao trào, vừa cởi nút câu chuyện.

Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện. Đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, tác giả nhằm thể hiện điều gì?

Hướng dẫn giải

Những yếu tố truyền kỳ trong truyện là: chuyện nằm mộng của Phan Lang, Chuyện Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa của Linh Phi,… chuyện lập đàn giải oan, Vũ Nương hiện về ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.”.

Nguyễn Dữ đã sử dụng cách đưa yếu tố truyền kì vào câu chuyện kết hợp với các yếu tố tả thực để tạo hiệu quả nghệ thuật về tính chân thực của truyện. tác giả muốn làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương – một con người luôn nặng tình với cuộc đời, quan lâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên và khao khát được minh oan. Đưa những yếu tố kì ảo vào truyện, tác giả còn muốn mở rộng phạm vi hiện thực, tạo ra cơ sở để minh oan cho Vũ Nương, khẳng định lòng trong trắng của nàng Đồng thời tạo ra một thế giới ước mơ, khát vọng của nhân dân về sự công bằng, bác ái. Một lần nữa tác giả muốn tố cáo chế độ phong kiến hà khắc đà không có chỗ cho người phụ nữ đẹp người, đẹp nết như Vũ Nương.

Hãy kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em

Hướng dẫn giải

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp nên Trương Sinh, người cùng làng mới xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Cuộc hôn nhân không bình đẳng của hai người đã ít nhiều hé lộ cuộc sống của Vũ Nương sau này.

Về làm vợ Trương Sinh, biết chồng có tính đa nghi, hay ghen nên Vũ Nương luôn luôn giữ gìn khuôn phép, giữ đạo làm vợ nên cả hai vợ chồng chưa lúc nào bất hòa. Cuộc sum vầy của đôi vợ chồng son chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra, triều đình bắt trai tráng trong làng đi đánh giặc Chiêm. Trương Sinh phải tham gia tòng quân đánh giặc. Ngày tiễn chồng ra trận, Vũ Nương tuy buồn khổ, đau đớn song cũng không ngăn cản chàng vì Trương Sinh phải thực hiện nghĩa vụ với đất nước và nàng cũng hiểu chí nam nhi mà Trương Sinh theo đuổi. Vũ Nương không mong Trương Sinh quay trở về trong vinh hoa, phú quý, chỉ mong khi chàng trở về sẽ mang theo được hai chữ bình yên. Những người tiễn Trương Sinh nghe lời Vũ Nương không ai cầm được nước mắt. Nàng còn đứng ở đó trông theo bóng của chồng mãi đến khi bóng Trương Sinh khuất hẳn mới quay trở về.

Lúc bấy giờ nàng đang có mang, Trương Sinh đi chưa được bao lâu thì Vũ Nương sinh ta một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên là Đản. Thoắt cái đã nửa năm Vũ Nương xa chồng nhưng nàng lúc nào cũng mong nhớ và chờ đợi tin của chàng. Người mẹ già cũng vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Vũ Nương vừa phải chăm con, vừa phải lo cho mẹ già. Nàng chạy chữa thuốc thang, cũng bái thần phật và lấy lời khôn khéo khuyên lơn bà. Song bệnh tình mỗi ngày một nặng, bà không qua khỏi. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, bà đã trối lại với nàng rằng ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về mà không gắng ăn miếng cơm, miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống việc chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, như con đã chẳng phụ mẹ. Vũ Nương đã lo ma chay, tế lễ cho bà chu đáo như đối với cha mẹ đẻ.

Bà cụ mất, ở nhà chỉ còn hai mẹ con. Vũ Nương mỗi tối ôm con, thường hay đùa trỏ bóng của mình trên vách nhà và nói với bé Đản đó là cha của nó. Sở dĩ nàng nói thế phần vì để vơi đi nỗi nhớ chồng, phần vì đứa con khỏi tủi thân khi thiếu vắng bóng người cha trong nhà. Thế nhưng, cái bóng cũng chính là nguyên nhân tạo nên nỗi oan khiên của nàng. Một năm sau khi mẹ chồng mất, giặc buông giáo đầu hàng, Trương Sinh trở về mới hay tin mẹ đã mất. Chàng đau khổ, buồn bã. Ôm con trong lòng ra thăm mồ của mẹ nhưng đứa con quấy khóc không nghe. Trương Sinh dỗ dành con và nghe được câu nói của bé Đản khiến chàng nghi ngờ sự thủy chung của vợ “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?…Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Mối nghi ngờ trong lòng Trương Sinh ngày càng lớn và không có cách nào gỡ ra được. Chàng đã về nhà nặng lời nhiếc móc, trách mắng vợ. Mặc cho vợ hết lời giải thích, minh oan, họ hàng làng xóm bênh vực và biện minh cho nàng nhưng cũng chẳng ăn thua gì cả. Cuối cùng, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Nàng về nhà tắm gội sạch chay, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin thần chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng, dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Nói rồi nàng gieo mình xuống sông mà chết. Trương Sinh tuy giận nhưng thấy nàng tự vẫn cũng động lòng thương, thuê người tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy đâu cả. Trong một đêm không vắng vẻ, chàng ôm con dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con trỏ bóng chàng trên vách và bảo là cha mình. Bấy giờ Trương Sinh mới hiểu ra nỗi oan khuất của Vũ Nương nhưng tất cả đã quá muộn.

Lại nói về Vũ Nương, sau khi gieo mình xuống sông, được các nàng tiên trong cung nước thương mình vô tội nên đã rẽ một đường nước để nàng thoát chết và trở thành cung nữ của Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải. Ở dưới thủy cung, Vũ Nương gặp được Phan Lang, người cùng làng cũng là ân nhân cứu mạng của Linh Phi. Hai người đã trò chuyện với nhau, khi Linh Phi sai người rẽ nước đưa Phan Lang trở về, Vũ Nương đã gửi một cây hoa vàng và nhờ Phan Lang chuyển lời tới Trương Sinh lập đàn giải oan rồi nàng sẽ trở về. Phan Lang về nói lại với Trương Sinh, chàng không tin nhưng khi nhìn thấy chiếc hoa vàng của vợ mới tin đó là sự thật. Chàng bèn lập đàn giải oan ở bến sông Trường Giang. Quả nhiên, Vũ Nương có trở về. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng nước, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Trương Sinh có gọi nhưng nàng chỉ nói vọng vào ở giữa sông: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Rồi chốc lát, bóng nàng loang loáng, mờ nhạt dần rồi biến đi mất.

Soạn Bài Chuyện Người Con Gái Nam Xương

Câu 1: Truyện có thể chia làm ba đoạn:

– Đoạn 1 (từ đầu đến ” lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình “): Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.

– Đoạn 2 (“Qua năm sau… nhưng việc trót đã qua rồi”): Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.

– Đoạn 3 (phần còn lại): Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi. Vũ Nương được giải oan.

Câu 2: Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong các hoàn cảnh khác nhau.

– Cảnh 1: Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.

– Cảnh 2: khi tiễn chồng đi lính. Trong lời dặn dò đầy tình nghĩa của Vũ Nương: nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng được bình an trở về; cảm thông trước những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng; nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình. Những lời nói ân tình, đằm thắm của nàng đã làm mọi người đều xúc động.

– Cảnh 3: khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng (những hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” – chỉ cảnh mùa xuân vui tươi, “mây che kín núi” – chỉ cảnh mùa đông ảm đạm là những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian). Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo, một mình vừa nuôi con nhỏ vừa tận tình chăm sóc mẹ già những lúc yếu đau, lo thuốc thang, cầu khấn thần phật, và lúc nào cũng dịu dàng, ân cần “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.

– Cảnh 4: khi bị chồng nghi oan.

+ Lời thoại 1: phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Vũ Nương nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là đã hết lòng tìm cách hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

+ Lời thoại 2: nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị “mắng nhiếc… và đánh đuổi đi”, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho”. Hạnh phúc gia đình (“thú vui nghi gia nghi thất”), niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn (“bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió…”), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa (“đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”).

+ Lời thoại 3: thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông quê hương để giãi tỏ tấm lòng trong trắng của mình, nàng “tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng…”. Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính, Vũ Nương bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí, không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả.

Câu 3: Vũ Nương phải chịu cái chết oan khuất vì nững nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp.

– Nguyễn nhân gián tiếp:

+ Chiến tranh phong kiến.

+ Chế độ gia trưởng, trọng nam khinh nữ.

+ Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương có phần không bình đẳng (Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” và lời nói của Vũ Nương “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”).

– Nguyễn nhân trực tiếp:

+ Do chồng vô học đa nghi, hay ghen và gia trưởng, độc đoán. Trương Sinh không đủ bình tĩnh để phán đoán, phân tích, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, không tin cả những nahan chứng bênh vực cho nàng, cũng nhất quyết không nói ra duyên cớ để cho vợ có cơ hội minh oan. Nút thắt ngày một chặt, kịch tính ngày một cao. Trương Sinh trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”, dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Cái chết đó khác nào bị bức tử, mà kẻ bức tử lại hoàn toàn vô can.

+ Do lời nói của đứa trẻ ngây thơ, chứa đầy những dữ kiện đáng ngờ. Thoạt đầu là sự ngạc nhiên của nó khi thấy mình có những hai người cha, một người biết nói và một người “chỉ nín thin thít”. Khi bị gạn hỏi, nó mới nói thêm đấy là “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Thông tin ngày một gay cấn ấy như đổ thêm dầu vào lửa, “tính đa nghi” của Trương Sinh đã đến độ cao trào, chàng “đinh ninh là vợ hư”.

Câu 4:

– Về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện của tác giả: Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có ý nghĩa, có tính chất quyết định đến quá trình diễn biến của truyện cho hợp lí, tăng cường tính bi kịch và cũng làm cho truyện trở nên hấp dẫn và sinh động hơn. Chi tiết Trương Sinh “đem trăm lạng vàng” cưới Vũ Nương, cuộc hôn nhân trở nên có tính chất mua bán; lời trăng trối của bà mẹ chồng khẳng định một cách khách quan nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng; những lời phân trần, giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động bình tĩnh, quyết liệt của nàng khi tìm đến cái chết… Lời nói của đứa trẻ, cái cớ để Trương Sinh nổi máu ghen, được đưa ra dần dần, và thông tin ngày một gay cấn làm cho nút thắt ngày một chặt hơn, để rồi sự thật được làm sáng tỏ sau khi Vũ Nương đã không còn nữa. Truyện trở nên có tính kịch hơn, gợi cảm hơn…

– Giá trị nghệ thuật của những đoạn đối thoại và những lời tự bạch của nhân vật: truyện có nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật, được sắp xếp rất đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần không nhỏ vào việc khắc họa quá trình tâm lí và tính cách nhân vật (lời nói của bà mẹ Trương Sinh là của một người nhân hậu và từng trải; lời của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có tình, có lí, ngay cả trong lúc đáng tức giận nhất, là lời của một người phụ nữ hiền thục, nết na, trong trắng, không có gì khuất tất; lời đứa trẻ hồn nhiên, thật thà,…).

Câu 5:

– Những yếu tố kì ảo:

+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.

+ Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương, người cùng làng đã chết, rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế;

+ Hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn tràng giải nỗi oan cho nàng ở bến Hoàng Giang lung linh, huyền ảo, với “kiệu hoa… cờ tán, võng lọng rực rỡ… lúc ẩn, lúc hiện”, rồi bỗng chốc “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.

– Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo:

+ Trước hết nó làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương, một con người dù đã ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự.

+ Điều quan trọng hơn là những yếu tố kì ảo đó đã tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng trong cuộc đời, người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.

Luyện tập: Hãy kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em.

Bài làm

Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương xinh đẹp, nết na. Trương Sinh cùng làng, mến vì dung hạnh, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết tính chồng đa nghi, nàng giữ gìn khuôn phép không để xẩy ra bất hòa.

Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải tòng quân đi đánh giặc Chiêm. Trong buổi tiễn đưa, Vũ Nương rót chén rượu đầy đưa cho chồng và nói chỉ mong ngày chồng trở về mang theo hai chữ bình yên.

Chồng ra lính được một tuần thì Vũ Nương sinh được đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm đã trôi qua, bà mẹ chồng già yếu, buồn lo rồi đau ốm. Nàng hết lòng săn sóc cơm cháo thuốc thang, ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Bệnh mỗi ngày một nặng, mẹ chồng qua đời, nàng vô cùng thương xót, mọi việc ma chay tế lễ, nàng lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.

Qua năm sau giặc tan, Trương Sinh được trở lại nhà, con vừa học nói. Chàng bế con đi thăm mồ mẹ, đứa trẻ không chịu và quấy khóc. Nghe Sinh dỗ dành, con ngây thơ nói: “Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói. chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Nghe Sinh gạn hỏi, đứa bé lại nói: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chảng bao giờ bế Đản cả”. Vốn có tính ghen, nghe con nói, Trương Sinh đinh ninh là vợ hư. Chàng la um lên cho hả giận. Vợ khóc lóc phân trần, chàng càng mắng nhiếc đánh đuổi đi. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than, mong thần sông linh thiêng chứng giám. Nàng nguyền, nếu đoan trang, trinh bạch xin được làm ngọc Mị Nương, làm cỏ Ngu mĩ; nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con thì xin làm mồi cho tôm cá, làm cơm cho diều quạ…

Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử. Chẳng bao lâu sau, một đêm vắng vẻ, ngồi dưới đèn khuya, bỗng đứa con chỉ chiếc bóng in lên vách mà nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa'”. Lúc bấy giờ Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ.

Lại nói chuyện Phan Lang người cùng làng, làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang. Một đêm chiêm hao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh, Phan chợt nghĩ đến chuyện mộng bèn đem thả con rùa ấy. Chẳng bao lâu sau, dưới thời Khai Đại nhà Hồ, giặc Minh sang cướp nước ta. Nhiều người sợ hãi chạy trốn, thuyền bè bị đắm, chết đuối đầy sông, trong đó có Phan Lang, xác dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi là vợ vua Nam Hải chợt nhìn thấy, bèn nói: “Đâv là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa”. Linh Phi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, một chốc sau Phan Lang hồi sinh.

Linh Phi rước Phan Lang vào cung nước, mở tiệc lớn ở gác Triêu Dương để đãi ân nhân. Trong bữa tiệc có nhiều mĩ nhân, áo quần thướt tha, tóc búi xễ, trong đó có một người chỉ điểm qua son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người đàn bà ấy đến gặp Phan Lang. Vũ Nương nói lại tình cảnh mình được các nàng tiên trong cung nước thương tình mà cứu sống. Nghe Phan nhắc lại cố hương, mồ mả tiền nhân,… Vũ Nương khóc…

Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng 10 hạt minh châu, sai sứ Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương cũng gửi Phan chiếc hoa vàng đưa về cho Trương Sinh và dặn lập đàn giải oan, đốt cây đèn thần trên bến Hoàng Giang thì nàng sẽ trở về.

Nhận được chiếc hoa vàng, Trương Sinh thốt lên: “Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi…”. Sinh làm đàn tràng, đốt cây đòn thần ba ngày đêm trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương đã hiện về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa, theo sau có 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông.”Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa…”, tiếng Vũ Nương vọng vào, bóng nàng loang loáng mờ dần rồi biến mất.

chúng tôi

Đề Kiểm Tra 15 Phút Môn Ngữ Văn 9 Bài Chuyện Người Con Gái Nam Xương

Đề kiểm tra trắc nghiệm ngữ văn 9 có đáp án

Đề kiểm tra 15 phút Ngữ văn 9 có đáp án

Đề kiểm tra 15 phút môn Ngữ văn 9 bài Chuyện người con gái Nam Xương với các câu hỏi trắc nghiệm Văn 9 có đáp án do VnDoc biên soạn nhằm giúp học sinh nắm vững nội dung tác phẩm, chuẩn bị cho bài kiểm tra 15 phút lớp 9 đạt kết quả cao.

Trắc nghiệm Ngữ văn 9 học kì 1 có đáp án, được xây dựng theo nội dung trọng tâm của bài học, không chỉ hỗ trợ học sinh ôn luyện kiến thức mà còn rèn luyện kĩ năng làm bài trắc nghiệm. Mời các em cùng quý thầy cô tham khảo.

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi. C hàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.Nhận định nào không phù hợp với những lời dặn dò đầy tình nghĩa của Vũ Nương với chồng?

Lời than sau đây của Vũ Nương nói lên điều gì ở con người nàng? Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộn, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nhận định nào nói đúng nhất nội dung của câu văn: Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.

Từ ” xanh” trong câu ” Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ ” dùng để chỉ cái gì?

Nhận định nào nói đúng nhất về nhân vật Trương Sinh trong ” Chuyện người con gái Nam Xương “?

Đáp án đúng của hệ thống

Trả lời đúng của bạn

Trả lời sai của bạn

Bạn đang xem bài viết Giải Vbt Ngữ Văn 9 Bài Chuyện Người Con Gái Nam Xương trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!