Cập nhật thông tin chi tiết về Họp Mặt Truyền Thống Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Tặng hiện vật của cố Luật sư Nguyễn Hữu Thọ cho bảo tàng
Hưởng ứng phát động, 4 gia đình đã gửi tặng hiện vật được gia đình đang lưu giữ là một phần kỷ niệm, là ký ức của một thời hoạt động cách mạng sôi nổi, thời vào sinh ra tử để giành lấy độc lập hòa bình, thống nhất đất nước của những chứng nhân lịch sử.
Các đồng chí lãnh đạo, các đại biểu và các gia đình hiến tặng hiện vật cho Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tại buổi họp mặt, sáng 20-12-2020. Ảnh: VIỆT DŨNG
Cụ thể, gia đình cố Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tặng hiện vật “Cặp đựng hồ sơ mỗi chuyến công tác của cố Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam”.
Chiếc cặp này được cố Luật sư Nguyễn Hữu Thọ sử dụng từ năm 1989, gắn liền với những tài liệu quan trọng của quốc gia, dân tộc. Thời điểm năm 1989, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đang là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.
Đợt này, gia đình cụ Phan Nhẫn, thành viên phái đoàn đàm phán Hiệp định Paris; Phó Văn phòng Mặt trận – Dân vận từ giai đoạn 1976-1982, hiến tặng hơn 100 hiện vật.
Những kỷ vật này giúp nhớ lại khoảnh khắc lịch sử đó là sau gần 5 năm đàm phán kiên trì, chúng ta đã buộc Mỹ phải chấm dứt vô điều kiện ném bom và bắn phá miền Bắc, buộc Mỹ ký kết Hiệp định Paris, Mỹ phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi và có ý nghĩa chiến lược để tiến lên giải phóng miền Nam Việt Nam, thống nhất đất nước.
Hiện vật thứ 3 là một chiếc rựa do ông Nguyễn Minh Hồng, nguyên cán bộ cơ quan Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam hiến tặng.
Năm 1965, ông Nguyễn Minh Hồng đã mua một cái nhíp xe ô tô và rèn thành chiếc rựa. Chiếc rựa này phục vụ công tác hậu cần trong chiến khu cho các đồng chí lãnh đạo là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và Luật sư Nguyễn Hữu Thọ từ năm 1965 đến ngày giải phóng. Ông Nguyễn Minh Hồng đã gìn giữ nó trong suốt 55 năm qua.
Cụm hiện vật cuối cùng là 4 bài báo do gia đình cố Giáo sư Lý Chánh Trung hiến tặng.
Đây là những bài báo ghi lại cuộc đấu tranh của phong trào “Ký giả đi ăn mày” do giới báo chí Sài Gòn thực hiện để xuống đường cùng đồng bào sôi sục đấu tranh chống Thiệu độc tài và tham nhũng; ghi lại cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam trên chiến trường đầy khốc liệt.
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Thành Lập
Sau Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền. Nhân dân miền Bắc và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ để tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Ở miền Nam, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm chống phá Hiệp nghị, chống tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà. Chúng đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh, thẳng tay tiến hành các chiến dịch đàn áp, khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước và mọi lực lượng đối lập. Chúng âm mưu xây dựng chế độ thống trị bằng bạo lực và máy chém, biến miền Nam Việt Nam thành một xã hội phụ thuộc Mỹ, chia cắt lâu dài nước Việt Nam.
Ngày 20/12/1960, các thành viên của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
tuyên thệ trong Lễ thành lập Mặt trận.
Trước tình hình như vậy ở miền Nam, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị lần thứ 15. Trên cơ sở phân tích tình hình, xác định mâu thuẫn của xã hội Việt Nam và miền Nam Việt Nam từ sau Hiệp nghị Giơnevơ, Hội nghị chủ trương có một mặt trận riêng ở miền Nam, coi đây là một trong những nội dung cơ bản của Nghị quyết 15.
Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được triệu tập, đã hoàn chỉnh những nội dung cơ bản về đường lối và phương pháp cách mạng ở miền Nam. Đại hội chủ trương thành lập Trung ương Cục ở miền Nam để giúp Trung ương Đảng, Bộ Chính trị chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam. Để tập hợp rộng rãi lực lượng cách mạng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, Đại hội III của Đảng cũng chủ trương phải xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất ở miền Nam.
Ngày 20-12-1960, tại vùng giải phóng ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập bao gồm đại biểu các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam, không phân biệt xu hướng chính trị, với Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm:
1. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ.
2. Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ.
3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thực hiện cải thiện dân sinh.
4. Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, giúp người cày có ruộng.
5. Xây dựng nền văn hóa giáo dục dân tộc, dân chủ.
6. Xây dựng một quân đội bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.
7. Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo hộ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào.
8. Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập.
9. Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
10. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới.
Chương trình 10 điểm của Mặt trận đã giải quyết một cách đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng miền Nam. Chính vì vậy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có sức thu hút mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân trong vùng giải phóng và các đô thị lớn.
Ngày 16-2-1962 tại Tân Biên (Tây Ninh), Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ I đã cử ra Ủy ban Trung ương chính thức gồm 52 đại biểu. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các Phó Chủ tịch gồm có: Bác sĩ Phùng Văn Cung; ông Võ Chí Công – đại diện Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam; Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát – Tổng Thư ký Đảng Dân chủ miền Nam; ông Ybih Aleo – người dân tộc Ê đê, Chủ tịch Ủy ban Phong trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên; Đại đức Sơn Vọng – đại biểu đồng bào Khơme yêu nước; ông Trần Nam Trung và Nguyễn Văn Hiếu. Ủy viên Đoàn Chủ tịch gồm có: Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Trần Bửu Kiếm, bà Nguyễn Thị Định, Hòa thượng Thích Thượng Hào, Ngọc đầu sư Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, ông Đặng Trần Thi.
Ngày 11-11-1964, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã họp Đại hội lần thứ 2. Có 150 đại biểu tham dự. Đại hội nhất trí cử ra Ủy ban Trung ương gồm 49 trên 150 đại biểu có mặt. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tiếp tục được cử làm Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Phó chủ tịch: ông Ybih Aleo, ông Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Huỳnh Tấn Phát, Thích Thôm Mê Thê Nhem – dân tộc Khơ me, Trần Nam Trung – đại diện Quân giải phóng Miền Nam. Các ủy viên: Nguyễn Thị Định, Trần Bạch Đằng, Thích Thượng Hào, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Văn Ngợi, Phan Xuân Thái (Phan Văn Đáng), Nguyễn Hữu Thế, Đặng Trần Thi. Ban Thư ký: Huỳnh Tấn Phát (Tổng Thư ký), Lê Văn Huân, Hồ Thu, Ung Ngọc Kỳ, Hồ Xuân Sơn (Phó Tổng Thư ký). Sau ông Nguyễn Văn Hiếu lại tham gia Đoàn chủ tịch.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chọn lá cờ nửa màu xanh, nửa màu đỏ, giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm cờ của Mặt trận và bài ca Giải phóng miền Nam làm bài hát của Mặt trận. Mặt trận có Thông tấn xã giải phóng, có Đài phát thanh giải phóng, có vùng căn cứ ở Bắc Tây Ninh, có đường dây liên lạc đến các nơi bằng vô tuyến điện, đường bộ.
Tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam bên cạnh Ủy ban Trung ương, khắp các huyện, tỉnh đều tổ chức thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng các cấp. Ủy ban Mặt trận địa phương được tổ chức ở bốn cấp: cấp khu, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Đến tháng 10-1962, hầu hết các tỉnh thành đều có Ủy ban Mặt trận. Trong số 41 tỉnh thành từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau thì có 38 tỉnh thành có Ủy ban Mặt trận ra mắt nhân dân. Từ năm 1960 đến 1967, Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng địa phương các cấp thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở cấp mình.
Cùng với việc thành lập Ủy ban Mặt trận ở nhiều địa phương là sự ra đời của các tổ chức thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Các tổ chức chính trị thành viên của Mặt trận được xây dựng và phát triển nhanh, có ảnh hưởng rộng rãi. Đặc biệt, sau khi Mặt trận ra đời, với Tuyên ngôn và Chương trình hành động của mình, trong năm 1961, các tổ chức quân sự, tổ chức giai cấp, các tôn giáo, các dân tộc và các giới đồng bào ở miền Nam lần lượt thành lập các hội đoàn và trở thành thành viên chính thức của Mặt trận.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là ngọn cờ công khai đoàn kết, tập hợp, tổ chức, lãnh đạo các hoạt động đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam không những có uy tín trong nước mà còn có vị thế trên trường quốc tế. Trong Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương, tháng 3-1965, Mặt trận là đại biểu chính thức của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Tháng 6-1967, Mặt trận thiết lập cơ quan đại diện tại Phnôm Pênh.
Ngày 30-6-1967, Chính phủ Cu Ba cử đại sứ đặc mệnh toàn quyền, bên cạnh Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngày 10-12-1968, Mặt trận đã cử đoàn đại biểu tham dự Hội nghị bốn bên ở Paris do đồng chí Trần Bửu Kiếm làm Trưởng đoàn.
Ngày 30-4-1975, cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam hiên ngang tung bay trên nóc dinh Tổng thống Sài Gòn, đánh dấu sự toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 2-1977, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam hợp nhất với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành một tổ chức duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Từ ngày thành lập đến ngày toàn thắng 30-4-1975 là một chặng đường đấu tranh gian khổ, nhưng hết sức vẻ vang của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sứ mệnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là tập hợp lực lượng nhân dân miền Nam với sự chi viện của miền Bắc XHCN để hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ. Mặt trận đã kế thừa những kinh nghiệm của quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam và vận dụng một cách sáng tạo vào cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Thành Lập Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (15
Sau thất bại nặng nề trong âm mưu phá hoại Hiệp định Genève, chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành pháo đài chống cộng bất khả xâm phạm, đánh dấu bằng sự bùng nổ Phong trào Đồng khởi của nhân dân trên toàn miền Nam và sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) vào 20-12-1960, Hoa Kỳ vẫn không từ bỏ tham vọng của mình và tiếp tục tìm kiếm chiến lược quân sự mới để đối phó.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thăm hỏi Quân Giải phóng miền Nam. (Ảnh tư liệu)
Chính thức nhậm chức tại Nhà Trắng từ 20-1-1961, Tổng thống Hoa Kỳ Kennedy đã thay thế chiến lược Trả đũa ồ ạt của Eisenhower bằng chiến lược Phản ứng linh hoạt. Chiến lược quân sự toàn cầu mới này gồm 3 loại hình là Chiến tranh tổng lực, Chiến tranh cục bộ và Chiến tranh đặc biệt. Ngày 28-1-1961, kế hoạch ứng dụng chiến lược Chiến tranh đặc biệt tại miền Nam Việt Nam đã được Chính phủ Hoa Kỳ thông qua.
Mục đích của chiến lược Chiến tranh đặc biệt là chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng ở miền Nam bằng sự phối hợp toàn diện các hoạt động quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý thông qua lực lượng chính quyền, quân đội của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) kết hợp với sự huấn luyện, cố vấn, chỉ huy và trang bị kỹ thuật, vũ khí, phương tiện chiến tranh do Hoa Kỳ viện trợ.
Biện pháp chủ yếu của chiến lược Chiến tranh đặc biệt là mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá nhằm gom dân vào 16.000 “ấp chiến lược” trên tổng số 17.000 thôn ấp ở miền Nam để “tát nước bắt cá”, coi đó là “quốc sách”, là “xương sống” của chiến lược; đồng thời dùng quân chủ lực của VNCH dưới sự yểm trợ của các đơn vị máy bay, xe tăng Hoa Kỳ sử dụng các chiến thuật tân kỳ như “trực thăng vận”, “thiết xa vận” tiến hành các cuộc hành quân để tiêu hao, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng, đẩy cộng sản ra khỏi lãnh thổ Nam Việt Nam.
Nhằm kịp thời đối phó với chiến lược quân sự mới của Hoa Kỳ, đồng thời tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng miền Nam tiến lên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTW Đảng) ngày 23-1-1961 đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam (gọi tắt là Cục R) thay thế Xứ ủy Nam Bộ, là một bộ phận của BCHTW Đảng, để chỉ đạo trực tiếp ở miền Nam.
Đặc biệt, Chỉ thị ngày 31-1-1961 và Nghị quyết đầu tháng 2-1961 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ quân sự trong 5 năm 1961-1965 và phương hướng nhiệm vụ của cách mạng miền Nam (sau đó được Nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1962 bổ sung thêm) đã chủ trương chuyển từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền, đồng thời đề ra những biện pháp chiến lược hết sức quan trọng, bao gồm:
– Duy trì và đẩy mạnh đấu tranh chính trị cả ở nông thôn và thành thị, đẩy mạnh đấu tranh quân sự lên ngang tầm với đấu tranh chính trị để kịp thời giáng trả các cuộc phản kích của địch, giữ vững thế trận ở vùng nông thôn.
– Đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang cả về số lượng và chất lượng, cả lực lượng tại chỗ và các khối cơ động; đồng thời củng cố một số căn cứ địa, xây dựng hậu phương tại chỗ tạo địa bàn đứng chân vững chắc cho các khối chủ lực.
– Phát triển chiến tranh du kích, đánh phá những nơi xung yếu như kho tàng, sân bay, bến cảng, các trục giao thông huyết mạch; tăng cường hoạt động chiến đấu của lực lượng chủ lực, nâng cao trình độ tác chiến tập trung.
– Vận dụng phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị phù hợp đặc điểm của ba vùng chiến lược: vùng rừng núi lấy đấu tranh quân sự là chính, vùng nông thôn đồng bằng coi trọng cả đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ngang nhau, vùng thành thị thì đẩy mạnh đấu tranh chính trị; kết hợp 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; tập trung mũi nhọn vào nhiệm vụ chống càn quét để làm phá sản chương trình lập “ấp chiến lược” của địch.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và quyết định của Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục miền Nam đã tổ chức Hội nghị quân sự tại Chiến khu Đ vào ngày 15-2-1961 để thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Nam. Kết quả là lực lượng Giải phóng quân miền Nam Việt Nam, gọi tắt là Quân Giải phóng miền Nam (QGPMN) được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Nam, bao gồm lực lượng ở lại không đi tập kết, lực lượng mới tham gia tại chỗ và lực lượng đi tập kết đã quay lại miền Nam hoạt động.
Đại đội súng cối 82 ly của du kích-Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam. (Ảnh tư liệu)
Về mặt quân sự, QGPMN là một bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), chịu sự lãnh đạo trực tiếp từ trên xuống của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Quân ủy và Bộ Tư lệnh QGPMN, Quân khu ủy và các Bộ Tư lệnh QGPMN ở các quân khu, Đảng ủy quân sự và Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố tại miền Nam. Vì thế, lực lượng bộ đội từ miền Bắc tăng cường vào Nam chiến đấu, kể từ năm 1963, nghiễm nhiên cũng là bộ đội thuộc biên chế QGPMN, chứ không phân biệt quân đội hai miền Nam-Bắc như quan điểm của Hoa Kỳ và VNCH.
Về mặt chính trị, QGPMN là lực lượng vũ trang của MTDTGPMNVN giai đoạn 1961-1969 và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) giai đoạn 1969-1976; vì vậy, QGPMN chịu sự lãnh đạo tối cao từ trên xuống của Bộ Chính trị, BCHTW của Đảng Lao động Việt Nam, Trung ương Cục miền Nam của Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam (thành lập vào ngày 1-1-1962), MTDTGPMNVN và CPCMLTCHMNVN.
Kể từ khi thành lập, lực lượng QGPMN không ngừng lớn mạnh và trưởng thành về nhiều mặt. Ngay trong năm 1961, Trung ương đã giúp xây dựng được 12 tiểu đoàn cho cả Khu V và Nam Bộ. Ngoài lực lượng và trang bị tại chỗ, sự chi viện của miền Bắc là nguồn bổ sung rất quan trọng cho sức mạnh của QGPMN. Chẳng hạn, năm 1963 có trên 40.000 cán bộ, chiến sĩ và 1.430 tấn vũ khí từ miền Bắc được đưa vào miền Nam; năm 1964 con số đó là 17.427 cán bộ, chiến sĩ và 3.435 tấn vũ khí (Lê Duẩn-Tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 297 và 314). Theo một số liệu thống kê, bộ đội chủ lực của QGPMN vào tháng 12-1974 khoảng 290.000 người, trong đó có chừng 90.000 người miền Nam.
Trong quá trình chiến đấu, QGPMN đã làm nên nhiều trận đánh nổi tiếng, phối hợp mặt trận đấu tranh chính trị giành được những thắng lợi quyết định, góp phần to lớn cùng cả nước đánh bại lần lượt các chiến lược quân sự then chốt của Hoa Kỳ và VNCH: Chiến tranh đặc biệt (1961-1965), Chiến tranh cục bộ (1965-1968), Việt Nam hóa chiến tranh (1969-1973); buộc Hoa Kỳ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương ngày 27-1-1973, rồi tiến lên đánh bại hoàn toàn chế độ VNCH, giải phóng miền Nam vào 30-4-1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sau kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (24-6-1976 – 3-7-1976), cùng với sự hoàn thành thống nhất về mặt Nhà nước, lực lượng quân đội cũng đi đến thống nhất dưới tên chung là QĐNDVN. Từ đây, tên gọi QGPMN đã trở thành quá khứ, song vẫn luôn còn đó lịch sử của 15 năm đấu tranh đầy hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng anh dũng của lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (1961-1976).
QGPMN đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của dân tộc giao phó, xứng đáng với 7 chữ vàng “Giải phóng quân anh dũng chiến thắng” được in trên lá quân kỳ do MTDTGPMNVN trao tặng ngay từ ngày thành lập. Hình ảnh hiên ngang, bất khuất, kiên cường của các chiến sĩ QGPMN mãi mãi in sâu vào văn chương, thơ ca, nhạc họa và là tượng đài trong tâm trí của nhân dân Việt Nam, trong sự ngưỡng mộ của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý.
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Bí mật chưa được tiết lộ về MẶT TRẬN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
Đồng bào miền Nam VN, ai cũng biết rằng CS chiếm được miền Nam nhờ “mặt trận giải phóng miền Nam” . Từ “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” qua “Liên Minh Dân Chủ”, rồi đến “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam VN”
Thành viên của mặt trận, ở miền Nam do kỹ sư Hồ Văn Bửu, từng là ủy viên của chính phủ lâm thời (ngang hàng Bộ trưởng), hồi chánh năm 1970 kể lại. Tập hồi ký này không xuất bản, chỉ dành cho các bạn thân của ông. Bản chính tập hồi ký đó, và được phép khai thác để cống hiến độc giả. Hiện ông kỹ sư Bửu vẫn còn trong trại tỵ nạn Thái Lan.
Ông Hồ Văn Bửu sinh năm 1932 tại Biên Hòa Thân phụ là ông Hồ Văn Tam, nhà giáo, sau khi hồi hưu làm chủ tịch hội đồng chủ tịch tỉnh Biên Hòa 1962-1963. Năm 1948, ông Bửu qua Pháp du học cùng chuyến tàu với Đỗ Cao Trí, lúc dó qua Pháp học về nhảy dù. Ông vừa là bà con vừa là bạn học với cố Đại tướng Đỗ Cao Trí. Qua Pháp, ông Bửu theo học trường Bernard Palassy ở Monpellier, sau dó lên Paris tiếp tục học và đổ kỹ sư Canh nông năm 1958. Năm sau ông về miền Nam được chính phủ VNCH bổ nhiệm làm phụ tá cho tiến sĩ Thái Công Tụng đang làm trưởng bang Thổ nhưỡng Trường kỹ thuật nông nghiệp.
Kể từ năm 1964, ông thôi làm công chức ở Bộ canh nông, qua làm chuyên viên khảo cứu cao su cho các đồn điền cao su Pháp ở miền Đông Nam phần. Trong những năm còn là sinh viên ở Pháp, ông Bửu đã có cảm tình với VC vì bị tổ chức Liên hiệp Việt kiều của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện tuyên truyền. Lúc đó ở Pháp, nhiều trí thức mới tốt nghiệp như ông, còn ngây thơ hính trị, chưa hiểu Cộng Sản là gì, đến khi có người tuyên truyền về chủ nghĩa Cộng Sản, họ thấy tốt đẹp, nên theo, rồi bị mắc lừa. Cụ thể có bác sĩ Trương Công Trung tức Hai Ngọ, kỹ sư Phạm Tám, kỹ sư Trần Văn Thiện, nghe lời đường mật của Cộng Sản hồi hương về Bắc. Nguyễn Khắc Viện vẽ ra trước mắt họ một chương trình “về phục vụ đất nước sau chiến thắng Điện Biên Phủ” với cả một tương lai rực rỡ. Về đến Hà Nội, các trí thức ấy được bổ nhiệm dưới quyền những tay CS bần cố nông, không biết chuyên môn. Hàng ngày, họ bị cán bộ nhồi sọ về chính tri, kiểm thảo thường xuyên. Vì thuộc thành phần tiểu tư sản, giới trí thức hồi hương này không bao giờ được đảng CS tin cậy, cũng không bao giờ cho giữ chức vụ chỉ huy nào cả.
Trường hợp ông Bửu có hơi khác. Khi làm chuyên viên cho Viện khảo cứu cao su cho các đồn điền Pháp, ông có dịp tới lui nhiều lần các đồn điền cao su nằm trong chỗ khuất vắng của các tỉnh miền Đông Nam phần, là nơi có du kích, cán bộ Cộng Sản núp lén hoạt động kể từ sau năm 1963. Thỉnh thoảng ông gặp họ, nói chuyện, bị họ tuyên truyền rồi ngả theo cái gọi la “mặt trận giải phóng miền Nam”, công cụ của CS Bắc Việt mà ông tưởng là tổ chức của người quốc gia yêu nước, có khuynh hướng độc lập, chống lại sự can thiệp vào nội bộ nước nhà của Mỹ. Khi đã lọt vào tay Cộng Sản rồi, thấy mình bị mắc lừa, ông Bửu chỉ tìm cơ hội vượt thoát khỏi cái tổ chức bịp bợm đó. Từ căn cứ của “chính phủ lâm thời” nằm sâu trên đất Miên, ông Bửu nhờ một người dẫn đường, tìm cách trốn qua Miên, bị cầm tù một thời gian, rồi bị trục xuất qua Lào. Ở đây ông bị điều tra mấy tháng rồi giải giao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Cuộc vượt thoát khỏi nanh vuốt của cộng sản phải mất sáu tháng. Sau năm 1975, ông bị bắt cầm tù cho đến cuối năm 1980 mới được thả. Về Saigon, ông sống không có trong tờ khai gia đình suốt mười năm, tìm cách vượt biên nhiều lần nhưng thất bại. Lần sau cùng, ông đến được trại tỵ nạn Thái Lan năm 1990, ông bị lọt sổ thanh lọc, chúng tôi thấy cách làm việc của Ban thanh lọc người tỵ nạn ở Thái Lan rất khó hiểu. Ông Bửu là một nhân viên cao cấp của CS, chống đối chế độ, trở về hồi chánh, rồi trốn thoát, bị tù đày, sau cùng vượt biên nhiều lần mới tới được bến tự do, nhưng không được nhìn nhận tư cách tỵ nạn chính trị. Ông có đủ giấy tờ chứng minh, hình ảnh báo chí ngoại quốc chụp khi ông công du Ấn Độ tố cáo chế độ cộng sản, thế mà vẫn bị đánh rớt. Không biết Ban thanh lọc đòi tiêu chuẩn của người tỵ nạn như thế nào mới gọi là hội đủ điều kiện của người tỵ nạn chính trị?
Phong Trào Hòa Bình, mở màn cho cuộc đấu tranh chính trị của CS ở miền Nam:
Hiệp định Geneva 1954 có điều khoản qui định rằng 2 năm sau, sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Tại miền Nam, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa biết rằng nếu tổ chức bầu cử, miền Bắc sẽ gian lận, và chiến thắng. Hơn nữa, viện lẻ chính quyền quốc gia không ký tên vào Hiệp định Geneva, nên chính phủ miền Nam tự coi mình không bị ràng buộc bởi những điều kiện trong đó. Năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm thông báo cho Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến ở VN, lúc đó là Đại sứ Ấn độ Christian Menon. Ông này vốn thiên Cộng, đã tìm cách thuyết phục chính phủ VNCH nhiều lần nhưng thất bại được tin đó, Hồ Chí Minh thất vọng ra mặt, nhưng HCM đã có chuẩn bị trước, cài nhiều cán bộ ở lại (từ 3000-5000 người) ngay khi ký Hiệp định Geneva. CS Bắc Việt phát động một hình thức đấu tranh chính trị mới: Đó là nguyên nhân chào đời của cái gọi là “phong trào đòi hòa bình và dân tộc tự quyết” ở miền Nam.
Để phát động phong trào này, trước hết cán bộ cộng sản nằm vùng bắt đầu hoạt động bí mật. Họ móc nối các trí thức ngây thơ, những người kháng chiến cũ đã bỏ họ về thành sau 1954. Cụ thể là Tạ Bá Tòng, cán bộ trí vận cộng sản tự là Năm Thới, hoạt động bí mật để tạo sự bất ổn trong dân chúng. Để mở đầu, Tạ Bá Tòng móc nối gia đình bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên là Tổng ủy trưởng Di cư năm 1954, có nhiệm vụ chuyên chở người tỵ nạn từ Bắc vô Nam! Gia đình ông Huyến có một người con gái tên là Phạm Thị Thanh Vân, lại có cảm tình với cộng sản. Bà ta kết hôn với ông Ngô Bá Thành nên lấy tên chồng để hoạt động trong hàng ngũ trí thức. Qua sự trung gian của gia đình bác sĩ Huyến, Tạ Bá Tòng tiếp xúc với nhiều trí thức bất mãn khác ở miền Nam, nhưng cũng không ưa cộng sản. Tạ Bá Tòng không bao giờ ra mặt. Từ trong tối, hắn chỉ thị cho bác sĩ Huyến, bà Ngô Bá Thành đi móc nối các vị lãnh đạo tôn giáo, các nhà báo, nhà giáo có uy tín để lập “liên hiệp hành động” chống sự can thiệp của Mỹ.
Giai đoạn này, mục tiêu của cộng sản là phát động một phong trào của dân chúng đòi “Hòa bình và Tự quyết”, có lúc báo chí miền Nam gọi là “Phong trào Hòa bình”. Mục đích sâu kín bên trong là yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thi hành Hiệp định Geneva, tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, để “mọi người dân tự quyết lấy số phận đất nước và thể chế tương lai của Việt Nam”. Phong trào này còn hô hào tẩy chay người Mỹ can thiệp vào nội tình miền Nam Việt Nam. Cán bộ cộng sản chỉ đạo phong trào không bao giờ ra mặt. Chúng núp lén để ra chỉ thị. Chúng tìm một số gương mặt trí thức được quần chúng biết đến để lôi kéo những người lãnh chỉ thị của cộng sản mời các bạn bè, thân hữu, vốn chỉ có cảm tình với nhau thôi, đến nhà hàng Thanh Thế để ăn cơm. Tới nơi, mới biết chúng tổ chức họp báo và ra tuyên ngôn đòi hỏi, yêu sách như đã nói trên. Phiên họp vừa mới bắt đầu thì cảnh sát áp vào bắt đủ mặt (lời ông Bửu). Ông Bửu cũng có dự phiên họp này nhưng đã lanh chân chạy thoát.
Hôm đó, “Buổi họp báo ngụy trang dưới hình thức buổi tiệc” có những người sau đây:
– Luật sư Nguyễn Long
– Bà Ngô Bá Thành
– Bác sĩ Phạm Văn Huyến
– Kinh lý Đào Văn Nhơn
– Hoạ sĩ Đặng Văn Ký
– Kỹ sư Hồ Gia Lý
– Ký giả Cao Minh Chiếm
– Giáo sư Đại học Văn khoa: Tôn Thất Dương Kỵ…
Sau đó họ bị chính quyền VNCH đưa ra tòa xét xử. Những người trong Ban Chấp hành bị 5 năm tù, những người bị mời ăn tiệc, chỉ mới ký tên bị 6 tháng tù ở. Luật sư Nguyễn Long trong Ban chấp hành bị 5 năm tù. Ít lâu sau, chính phủ Ngô Đình Diệm nhất định đưa 3 ông: Bác sĩ Phạm Văn Huyến, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và nhà báo Cao Minh Chiếm được gọi là “3 ông hòa bình” trục xuất ra Bắc qua ngã cầu Hiền Lương. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, gia nhập đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1947.
Khi hay tin “ba ông hòa bình” bị áp giải qua cầu Hiền Lương, Việt Cộng đã tổ chức một cuộc mít-tinh để đón tiếp và tuyên truyền. Đây cũng là một cuộc đấu tranh chính trị giữa hai miền Nam Bắc. Khi “Các ông hòa bình” được cảnh sát miền Nam dẫn độ ra đến sông Bến Hải, có khuyên các ông một lần chót nên xin ở lại để được khoan hồng, nhưng các ông đã lở leo lên lưng cọp rồi, khó xuống được. Cây cầu Hiền Lương lúc đó sơn hai màu khác nhau: phân nửa phía bên cộng sản sơn màu đỏ, phân nửa bên Việt Nam Cộng Hòa sơn màu xanh. Khi ba ông hòa bình vừa bước qua ranh giới phân chia Nam Bắc, công an Việt Cộng chạy tới tiếp dón, giành các túi xách của ba ông để ba ông rảnh tay đến dự cuộc mít-tinh do cộng sản tập trung dân chúng ở huyện Vĩnh Linh đến để tuyên truyền. Cuộc mít-tinh này gọi là dân chúng tự động họp mít-tinh chào mừng ba nhà trí thức yêu nước của miền Nam. Về sau, thân nhân của một trong ba vị ấy (xin giấu tên) nói rằng khi trở lại lấy túi đồ, thì túi đồ đã bị lục soát, bị mất đi mấy bộ đồ mới.
Ba ông hòa bình được phái đoàn miền Bắc đón tiếp ở cầu Hiền Lương, sông Bến Hải. Bác sĩ Phạm Văn Huyến mang số 1, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ mang số 2, ký giả Cao Minh Chiếm mang số 3. Sau đó, ba ông hòa bình được dẫn đi thăm viếng các xí nghiệp, nông trường và hợp tác xã ở miền Bắc để tuyên truyền cho chính sách đoàn kết chiến đấu của Việt Cộng. Số phận của ba nhà trí thức miền Nam này ra sao?
Hết gia đoạn tuyên truyền rồi, cả ba ông được đưa sang Cam-bốt để tiếp tục làm công tác đánh lừa dư luận dân chúng hải ngoại với đường lối mới, đòi “trung lập hóa miền Nam theo chủ trương của Tổng Thống De Gaulle là trung lập hóa toàn thể Đông Dương”. Trái lại, lúc này quốc trưởng Sihanouk không đồng ý sự có mặt của ba ông hòa bình trên xứ Chùa Tháp, nên ra lịnh cho cảnh sát mời ba ông đến yêu cầu rời khỏi lãnh thổ Cam-bốt lúc nào thuận tiện nhất. Họ khuyên ba ông làm đơn lên quốc trưởng Sihanouk, để xin đi bất cứ nơi nào cũng được. Riêng một mình giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ làm đơn xin ra Bắc, được bố trí làm Tổng thư ký Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đình Thảo sau này. Đó là chức vụ hữu danh vô thực, khiến ông chán nản, và bất mãn từ đó. Còn hai ông Phạm Văn Huyến và Cao Minh Chiếm thì xin qua Pháp, không bị Việt Cộng lợi dụng nữa.
“Phong trào hòa bình và Tự quyết” của CS bị thất bại. Nó tạm lắng dịu một thời gian chờ cơ hội khác tái sinh dưới một tổ chức khác để rù quến những con mồi ngây thơ khác, đó là Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đình Thảo.
Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ là một nguy cơ cho đất nước. Thời kỳ sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, miền Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng lãnh đạo trầm trọng, khủng hoảng về đường lối chiến tranh (quốc sách Ấp Chiến Lược đang có hiệu quả, nhưng vì mặc cảm với chế độ củ, nên bãi bỏ để lập Ấp Đời Mới, Ấp Tân Sinh, đó chỉ là các hình thức vá víu tạm bợ). Chế độ mới chỉ lo thỏa mãn tham vọng của mình và lo trả thù những quân nhân, công chức có liên hệ với chế độ cũ, làm thiệt hại đến tiềm năng chiến đấu chống cộng sản.
Tất cả những điều đó tạo ra sự bất ổn chính trị, chia rẽ và CS liền khai thác triệt để, đưa cán bộ xâm nhập vào dân chúng miền Nam để tuyên truyền, móc nối với các thành phần trí thức, tôn giáo. Nhiều trí thức trong “Phong Trào Hoà Bình” lúc trước đã mãn hạn tù. Họ bất mãn chính phủ VNCH. Khi CS chủ trương mở ra mặt trận tranh đấu mới thì họ sẵn sàng tham gia, đó là “Liên Minh Dân Chủ” của luật sư Trịnh Đình Thảo. Lúc này Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã chào đời, nhưng chỉ đóng trong rừng. Cục R và mặt trận này cứ dời đổi địa điểm tới lui 2 bên con sông nhỏ, làm ranh giới giữa Tây Ninh và Kampuchea. MTGPMN ra đời mấy năm nhưng tỏ ra không hữu hiệu, nên họ mới dựng ra cái gọi là “Liên Minh Dân Chủ”, để lôi cuốn trí thức tranh đấu ngay trong vùng chính phủ VNCH kiểm soát. Trịnh Đình Thảo là người miền bắc, sinh trong một gia đình có tiếng tăm, cả thảy bốn anh em, đều đổ đạt, hay giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền Pháp thuộc. Người anh cả là Trịnh Đình Huyến, tốt nghiệp Trường Canh nông Hà Nội, là đốc công ở Bạc Liêu, người anh kế tốt nghiệp Trường Công chánh, và người em gái út gã cho một luật sư ở Hà Nội. Ông Thảo tốt nghiệp tiến sĩ Luật khoa bên Pháp, về mở văn phòng luật sư ở Saigon.
Buổi họp đầu tiên của Liên Minh Dân Chủ vào tháng 1/1964 tổ chức tại nhà ông Kinh lý Đào Văn Nhơn, đường Hàn Thuyên, thẳng góc với Dinh Độc Lập. Lời ông Bửu:
“Trước ngày họp, tôi được tiếp xúc với một cán bộ VC tên Tư Đen mời tôi tới làm thư ký cho Liên Minh đó. Phản ứng đầu tiên của tôi là từ chối, vì lẽ tôi đang ở trong tuổi động viên, đi lính VNCH. Tư Đen lý luận rằng, “Trong số thư ký đó, cũng có Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung (giáo sư Đại học Văn khoa) cũng ở lớp tuổi của anh có sao đâu!” Tôi suy nghĩ một lúc rồi cũng nghe theo lời của anh ta, để rồi hôm sau tôi đến chỗ họp.
Tại nhà ông kinh lý Đào Văn Nhơn, vào lúc 16 giờ, có mặt gần như đông đủ hết các trí thức được mời. Kế tiếp, thẩm phán Trần Thúc Linh, thuyết trình mục đích và yêu cầu việc thành lập Liên Minh Dân Chủ. Sau khi Trần Thúc Linh kêu gọi anh em đóng góp ý kiến, thì giáo sư Lý Chánh Trung mới đặt vấn đề:
– Người ta mời tôi vào một tổ chức quốc gia mà trong chương trình hành động không có đề cập đến vân đề chống CS, thì vô tình chúng ta sẽ bị chánh quyền chụp mũ rằng chúng ta hoạt động có lợi cho CS thì sao?
Chỉ một mình Trần Thúc Linh trả lời rằng:
– Chúng ta là những người dân không bị CS cai trị. Chúng ta không có cơ sở nào nêu lên vấn đề chống Cộng.
Cuộc họp gây cấn sắp đổ vỡ. Đến giai đoạn bầu ban chấp hành, thì ông Kha Văn Dưỡng, dân biểu khóa I của VNCH được bầu làm chủ tịch.
Các chức vụ khác như sau :
– Phó chủ tịch : Luật sư Trịnh Đình Thảo.
– Tổng thư ký : Trần Thúc Linh.
– Phó Tổng thư ký
– Ủy viên: Bà Ngô Bá Thành, Nhà văn Thanh Nghị, Thiếu Sơn…
Sau cuộc họp, chủ nhà mới ăn tiệc thì tôi được rỉ tai rằng : “Chỉ làm biên bản đưa về Cục R, chứ không đứng tên, tức là VC có âm mưu sử dụng tôi (Hồ Văn Bửu) vào việc khác”.
Chừng một tuần sau, tôi đọc báo được biết rằng con trai của ông Kha Văn Dưỡng là Thiếu tá quân lực VNCH (1964) viết báo đính chánh: Cha của anh được mời đi ăn tiệc, rồi tên ông ta (Kha Văn Dưỡng) được đưa lên làm chủ tịch “Liên Minh Dân Chủ” mà chính ông không biết. Một vài ông khác cũng viết báo đính chính, cho nên liên minh này của VC chết ngay sau khi công bố danh sách, và chính phủ VNCH cũng không bắt bớ ai cả.
Tuy nhiên qua hành động quá lộ liễu của ông Trần Thúc Linh, hoạt động chống phá VNCH mà chính quyền không đủ chứng lý để bắt ông ta. Vào một ngày nào đó của năm 1967, con trai ông đang học năm thứ hai trường Đại học Y khoa Saigon, bị hai thanh niên lực lưỡng từ bên ngoài, đột nhập vào trường Y khoa, bắt ném qua balcon từ lầu hai xuống đất. Chú sinh viên y khoa năm thứ hai này chết ngay tại chỗ. Đó là hành động trả đủa của ông Thiệu hay ông Kỳ gì đó (lời ông Bửu), cho nên công an VNCH khỏi mất công đi tìm thủ phạm.
Sau lễ an táng con trai, ông Trần Thúc Linh có đăng báo cáo phó, cám ơn các bộ trưởng và thân hào nhân sĩ đã chia buồn với gia đình ông. Vả lại, khi thấy sinh mạng bị đe dọa, Trần Thúc Linh không còn dám hoạt động cho CS nữa. Trái lại, hành động ném lựu đạn giết chết luật sư Dương Trung Tín (anh ruột bà Dương Quỳnh Hoa, theo CS) tại nhà ở Đà Lạt đã thúc đẩy bác sĩ Dương Quỳnh Hoa chạy theo VC sau cuộc Tổng công kích Mậu Thân của CS năm 1968. Luật sư Tín là người đã từng mang thư riêng của Lê Duẩn gởi cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ để móc nối ông này tham gia MTGPMN vào năm 1960.
Vào năm 1965, qua sự sắp xếp của CS, chúng tôi một số trí thức có cảm tình với CS được đưa đến một nhà hàng để gặp gỡ với Đặc sứ lưu động của TT Johnson. Buổi tiệc này được tổ chức bí mật tại một phòng trên lầu 3 nhà hàng Á đông trong Chợ Lớn. Đúng giờ hẹn, chúng tôi đến thì ông Yamato đã có mặt một mình trong phòng khách, đang xem báo. Qua lời giới thiệu của bà Ngô Bá Thành, chúng tôi chào hỏi xã giao bằng tiếng Pháp. Ông Yamato mời chúng tôi vào phòng ăn. Bửa cơm Tàu thịnh soạn được lần lượt dọn lên, không có ai uống rượu cả, và đàm thoại tự do, không có máy ghi âm. Mục đích của ông đại sứ này là đi nhiều nước, tiếp xúc với giới trí thức và chính quyền sở tại để thăm dò ý kiến về việc Mỹ trực tiếp tham chiến ở VN. Ông trò chuyện với người ngồi kế bên. Rồi ông tự động xin đổi chỗ ngồi để tiếp chuyện với từng người một. Ông hỏi tôi :
– Ông nghĩ gì về cuộc chiến tranh hiện naỵ
Tôi đáp:
– Thưa ngài đại sứ, cuộc chiến tranh này không thấy chiến thắng quân sự. Người Mỹ có phương tiện hiện đại và vũ khí tối tân, nhưng không tiêu diệt được người du kích CS. Chúng tôi đề nghị người Mỹ đình chiến để thương thuyết và rút quân Mỹ đi thì sẽ có hòa bình. Bởi chiến tranh lâu dài chỉ gây chết chóc cho “người dân vô tội”.
Ông ta (Yamato) nói thêm:
– Các anh có tiếp xúc với bên kia (CS) không?
Tôi (Bửu) trả lời không.
Ông Yamato nói:
– Hãy chờ đợi vài năm nữa sẽ chấm dứt chiến tranh.
Kế đó, ông chuyển ghế để ngồi gần người khác và tôi không nghe ông hỏi gì thêm.
Chúng tôi gồm có luật sư Trịnh Đình Thảo, bà Ngô Bá Thành, thẩm phán Đỗ Quang Huệ, thẩm phán Trần Thúc Linh, kỹ sư Trương Như Tảng, kỹ sư Hồ Gia Lý, kỹ sư Tô Văn Cang (KN: một cán bộ cao cấp của VC; người sau này chứng nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh trong Dinh Độc Lập), bác sĩ Trần Văn Du, Kinh lý Đào Văn Nhơn, hoạ sĩ Đặng Văn Ký và kỹ sư Hồ Văn Bửu.
Cuối cùng, ông đại sứ Yamato mới lên tiếng cho cả bàn tiệc nghe rằng trước đây ông đã từng đi Âu Châu, sang Đông Nam Á, tiếp xúc với các chính quyên địa phương, rồi trạm chót là VN, để gặp gỡ các trí thức VN, trước khi ông về Mỹ báo cáo cho TT Mỹ… Tiếp đó, ông đưa ra một quyển sổ yêu cầu mỗi người ghi tên họ, tuổi tác và nghề nghiệp của mình. Cuối cùng ông vui vẻ đứng dậy chia tay từng người, và chúc sức khoẻ. Ông yêu cầu mọi người kiên trì chờ đợi ngày hoà bình sẽ đến VN không xa lắm đâu.
Cũng theo lời ông Bửu, lúc đó Mỹ chưa trực tiếp tham chiến tại VN. Vài tháng sau, Mỹ đổ quân ào ạt vào Saigon và Đà Nẵng. Sau cuộc gặp gỡ đại sứ Yamato thì vài tháng sau, có một số người Mỹ tìm gặp một số trí thức VN đối lập với chính quyền VNCH. Một dịp tình cờ, tôi đến nhà ông Trịnh Đình Thảo ở Hạnh Thông Tây, Gò vấp, lời ông Bửu, đây là một vườn xoài rộng 6 mẫu, ông Thảo cho xây một nhà đúc kiên cố, theo kiểu nhà khách ở bịnh viện Cộng Hòa.
Chúng tôi ngồi uống trà dưới bóng mát của 3 cây xoài, trên những ghế đá mài. Tôi được ông Thảo giới thiệu với một người Mỹ nói tiếng Pháp, còn tôi được gọi là kỹ sư không xưng tên. Sau lời chào hỏi lịch sự theo xã giao Tây phương, chúng tôi nói chuyện thoải mái với ông Mỹ này. Tôi nói:
– Nguyện vọng của chúng tôi là yêu cầu Mỹ rút quân để vấn đề chiến tranh này cho người VN giải quyết với nhau.
Người Mỹ đáp:
– Nếu quân đội Mỹ rút đi, thì CS sẽ chiếm miền Nam.
Tôi nói tiếp:
– Nếu CS có thắng thì chúng tôi hợp tác với họ trong hòa bình, không còn bắn giết nhau nữa, người dân Việt Nam mới sống yên ổn, sinh hoạt bình thường, không còn lo sợ chiến tranh.
Người Mỹ này đứng dậy, lấy khăn lau mồ hôi trán, rồi chậm rãi đáp:
– Nếu CS vào Saigon, thì sẽ bắn giết lực lượng VNCH. Saigon sẽ thành biển máu lửa. VC sẽ bỏ tù hết các ông.
Tôi đáp ngay:
– Chúng tôi là dân sự, không chống đối họ thì họ sẽ trọng dụng chúng tôi, nhất là chúng tôi là những chuyên viên về kinh tế, kỹ thuật, có thể phục vụ cho đất nước bất cứ lúc nào cũng được.
Ông Mỹ nói:
– Ông còn ảo tưởng lắm! Người CS có đường lối độc tài của họ, không sử dụng người trí thức đâu. Họ sẽ tiêu diệt giai cấp bằng cách quốc hữu hóa tài sản của người dân, biến con người thành công cụ sản xuất, nhằm bảo vệ giai cấp lãnh đạo của họ, được gọi là giai cấp công nhân thất học đó.
Tôi có cảm tưởng khinh thường ông Mỹ này, vì tôi cho rằng ông đi tuyên truyền chống cộng như con vẹt. Tôi đáp:
– Xin lỗi ông, tôi không tin!
Trong khi đó, trước sự chú ý của nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, ký giả Hoàng Trọng Miên, bà Ngô Bá Thành, kỹ sư Trần Văn Quyến, ký giả Thiếu Sơn, kỹ sư Hồ Gia Lý…thì ông Thảo cắt ngang lời nói của tôi. Ông nói:
– Cháu còn trẻ nên còn hăng đấy.
Ông Mỹ cười và quay sang bà Ngô Bá Thành ngồi kế bên nói chuyện một lúc. Rồi ông nói rõ lập trường của Mỹ như sau:
– Người Mỹ sang VN chiến đấu vì lý tưởng tự do và bảo vệ tự do cho dân tộc VN. Với tư cách một người trí thức Mỹ, tôi tin rằng số đông trí thức VN đều có du học ở phương Tây, sẽ hiểu biết được thực tâm của chính phủ Mỹ, để không chống đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở VN, nhằm ngăn chặn làn sóng sẽ do Trung Cộng đang muốn bành trướng sang VN và Đông Nam Á. Trong dịp này, CS núp dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam”, để rồi sau khi chiếm được VNCH, họ sẽ thôn tính luôn cả Lào và Kampuchia.
Qua cuộc tiếp xúc này, tôi được biết ý định của Mỹ, nhưng tôi vẫn xem Mỹ là kẻ xâm lược VNCH, vì lẽ “người dân có kêu Mỹ tham chiến đâu”! Tự nhiên người Mỹ vào thay thế người Pháp sau Hiệp định Geneva 1954 và cai trị chế dộ VNCH xuyên qua các chính quyền do Mỹ dựng lên. Sự có mặt của người Mỹ như chủ nhân ông, không có chính nghĩa. Đối với lương tri con người, mặc dù chính quyền Mỹ đã tốn rất nhiều tiền, và thanh niên Mỹ phải bỏ mạng ở chiến trường VN. Bởi vì nếu CS xâm lược thì nhân dân miền Nam có quyền tự vệ và đánh đuổi CS ra Bắc Việt Cũng bởi vì quốc sách Ấp Chiến Lược của VNCH đang tỏ ra hữu hiệu thì Mỹ lại thay đổi chính sách chống Cộng!
Hoạt động của “Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”:
Sau khi MTGPMN không còn hữu hiệu nữa, CS giải tán để lập thành “Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam VN”. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa từ Ban Y tế qua làm Bộ trưởng Y tế. Các ông trong Ban tuyên huấn mặt trận thì trở thành Bộ trưởng Thông tin hay Giáo dục. Các ông già như ông Trịnh Đình Thảo, Lê Văn Giáp, Lâm Văn Tết ra Bắc lánh nạn. Vợ chồng Thiên Giang, Trần Kim Bảng ra Bắc để qua Đông Đức chữa bệnh. Lâm Văn Tết là kỹ sư, có chân trong Thượng hội đồng quốc gia, thành lập sau khi lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Tết được Trần Bạch Đằng móc nối theo CS.
Sau khi chính phủ ma này được dựng lên thì nó được lệnh của CS Bắc Việt tổ chức đi thăm hữu nghị chính phủ Hoàng gia Kampuchia. Trong buổi họp, đại diện chi bộ đảng là Huỳnh Tấn Phát tiết lộ cấp trên chỉ định “chị Bảy Hồng”, tức bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, tham gia phái đoàn của chính phủ do Huỳnh Tấn Phát cầm đầu. Trên thực tế, phái đoàn này gồm toàn thể cán bộ cao cấp của Đảng CSVN, chỉ có 2 người của “chính phủ cách mạng lâm thời” như kể trên. Phái đoàn được dự trù tự động đến thị xã Swayriêng thì xe chính quyền Kampuchia đón rước đưa về Phủ Thủ tướng cho Lon Nol tiếp đón. Sau nghi lễ tiếp đón ở dinh thủ tướng, Lon Nol, thủ tướng chính phủ hướng dẫn phái đoàn “chính phủ cách mạng lâm thời” đến hoàng cung ra mắt thái tử Sihanouk và hoàng hậu Monique. Tối lại, phái đoàn được mời dự tiệc và nghỉ đêm tại nhà khách của hoàng cung. Qua hôm sau, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Hoàng Bích Sơn và Nguyễn Văn Hiếu được Sihanouk hướng dẫn đi thăm các cơ sở văn hóa của kampuchia như Chùa Vàng, Chùa Bạc và vài cơ sở kinh tế trong thành phố Nam Vang. Trong khi đó, phái đoàn chuyên viên kinh tế giữa 2 chính phủ làm việc với nhau.
Cụ thể như VC cần mua 90,000 tấn gạo, nhưng VC ký hiệp định mua của Kampuchia 60,000 tấn thôi, vì lẽ VC cảnh giác rằng chính phủ Kampuchia có thể lật lọng thì CS sẽ ở vào thế bí. Còn 30,000 tấn gạo kia thì sẽ giữ bí mật để mua gạo chợ đen của dân chúng Miên tự động chở xuống biên giới Việt-Miên bán cho cơ quan hậu cần của VC. Qua 3 ngày viếng thăm chính thức Kampuchia, “chính phủ cách mạng lâm thời” muốn mua lòng Sihanouk, nên biếu cho Kampuchia năm hòn đảo của VN đối diện với thành phố Kép của Kampuchia . Năm hòn đảo này nguyên là chủ quyền của VNCH, có dân cư VN đang sinh sống và VC biếu không cho Kampuchia để lấy lòng Sihanouk, nhờ y cho phép chỡ vũ khí từ Kompongsom lên biên giới Việt-Miên theo giá biểu 4000-5000 riel một tấn.
Thái Tử Norodom Sihanouk bắt tay ông Trương Như Tảng, bộ trưởng Bộ Tư Pháp của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời miền Nam. Sau 1965. Sihanouk từ bỏ đường lối trung lập giữa hai khối tư bản và cộng sản mà ngả về phía Cộng sản bằng cách ký kết với Trung Cộng và miền Bắc cho phép miền Bắc đưa vũ khí vào Cam Bốt qua hải cảng Sihanoukville rồi chuyển qua biên giới Việt Miên vào miền Nam.
Nói về sự lãnh đạo của đảng CS, thì trong phái đoàn này có Hoàng Bích Sơn của Bắc Việt là người trực tiếp đưa ra đường lối và chủ trương của đảng, vì lẽ Sơn là người với danh nghĩa thư ký của MTGPMN, nhưng lại lãnh đạo trực tiếp Nguyễn Hữu Thọ trong thời kỳ chiến tranh VN. Còn tại “Phủ chủ tịch” của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời” thì tên Tư Dũng là Bí thư đảng đoàn của Phủ chủ tịch, tức là lãnh dạo luôn cả Huỳnh Tấn Phát trong mọi sinh hoạt. Còn ở Tòa Đại sứ VC ở nam Vang, thì tên Ba Dũng là Đệ nhất bí thư Toà Đại sứ, lãnh đạo Đại sứ Nguyễn Văn Hiếu, mặc dù Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát và Nguyễn Văn Hiếu đều là đảng viên, nhưng không thuộc thành phần công nhân và bần cố nông vô sản, nên không được quyền lãnh đạo theo chủ trương của Đảng CSVN. Tôi nói rõ như vậy để chứng minh rằng CSVN không bao giờ sử dụng khả năng của người trí thức. Nếu người trí thức đó do chế độ tư bản đào tạo mà đứng được trong hàng ngũ CS thì có 2 lẽ: một là đảng viên kỳ cựu cở Nguyễn Khắc Viện và Huỳnh Tấn Phát, đã lỡ phóng lao thì phải theo lao. Nhưng sau này, Nguyễn Khắc Viện cũng bị thất sủng rồi; thứ hai là các trí thức cơ hội, chế độ nào cũng hùa theo để kiếm ăn cở Nguyễn Xuân Oánh, Nguyễn Ngọc Hà, Ngô Bá Thành, Lý Chánh Trung,…
Sau khi kết thúc việc viếng thăm chính thức Kampuchea, Lon Nol đích thân đưa phái đoàn “chính phủ cách mạng lâm thời” của VC từ Nam Vang về biên giới Việt-Miên. Tại biên giới này, nhờ con sông Saigon chia đôi 2 nước, VC chuẩn bị sẵn xuồng để băng qua sông. (chỗ hẹp nhất phía trên đó như 1 dòng suối) ở đoạn hẹp nhất để trở lại căn cứ VC trên đất Kampuchia. Trong dịp này, Hoàng thân Sihanouk có biếu cho “chính phủ cách mạng lâm thời” 16 tấn khô cá, gọi là món quà hữu nghị Khmer-VN.
Tướng Lon Nol. Năm 1970, Lon Nol lật đổ Sihanouk vì không muốn Sihanouk để cho người Việt đóng quân trên đất Cam Bốt. Năm 1975, Khmer Đỏ thắng tại Cam Bốt, Lon Nol chạy sang Hawai.
Từ đất Miên băng qua sông, tưởng là qua lãnh thổ VN cũng rất thực tế. Có lần, ký giả Burchette, 2 giáo sư y khoa người Pháp tên là Can và Crévin và Đại sứ Raoul Castro của Cuba từ Nam Vang đến vùng VC có nhiệm vụ gì đó, cũng bị VC đánh lừa bằng cách cho xuống xuồng băng ngang qua sông, đi một đổi thật xa, lên tới nguồn sông Saigon, rồi băng trở lại chỗ hẹp nhất như băng qua suối để đi về căn cứ VC trên đất Miên mà họ tưởng rằng căn cứ đó ở miền Nam VN. Nhờ những thủ đoạn vặt như vậy mà CS mới tuyên truyền bịp dư luận ở ngoại quốc, và căn cứ trên đất Miên không bị tiêu diệt bởi lực lượng VNCH. Điều đó chứng tỏ VC không thành thật ngay với cán bộ của mình, lẫn đồng minh.
Trong một dịp trò chuyện với bác sĩ Nguyễn Văn Thủ và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp năm 1969 tại “phủ chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời”, hai anh này nói với tôi rằng hai anh có nhiệm vụ đi rước khách nước ngoài kể trên tại bờ sông biên giới hai anh hướng dẫn khách nước ngoài lên bờ bên này, đi rất xa nhưng khi lên ngọn suối băng trở lại thì giáo sư Crévin nói rằng, “Tôi có cảm tưởng là tôi trở lại đất Kampuchia”. Anh bác sĩ Thủ liền đáp:
– Xa đất Kampuchia lắm rồi.
Tất cả đều cười hả hê vì đi quá xa, qua trảng thì sợ máy bay xạ kích tự do nên cũng thắm mệt, không nhớ phương hướng gì cả. Trên thực tế, căn cứ của Ban Dân Y chỉ nằm cách chỗ xuồng đậu 500m trên đất Kampuchea, tức là khỏi cần qua sông cũng đi tới rất mau lẹ thôi!
Tôi và anh Trương Như Tảng có đến căn cứ này dự lễ mãn khóa đào tạo 200 bác sĩ y khoa do bác sĩ Trần Hữu Nghiệp mời. Trong số sinh viên y khoa, tôi để ý một nhóm nữ sinh người Hoa, không thạo tiếng Việt mà cũng đi học. Đó cũng là đường lối chính trị lừa bịp của CS, khích lệ người Hoa tham gia mặt trận chống Mỹ. Đó là lời tiết lộ của cô Phùng Ngọc Anh, 21 tuổi, bị nhốt tại Tổng nha Cảnh sát VNCH sau khi bắn lính Mỹ bằng cả hai tay cầm hai cây súng nhỏ, giữa thành phố Saigon. Cô là người Hoa Chợ Lớn, bị quân cảnh bắt tại hiện trường, nhưng đưa qua Cảnh sát Quốc gia điều tra không ra manh mốị. Đêm đầu tiên của trận Mậu Thân 1968, cô bị đem thủ tiêu mà không chết. Cô được xe cứu thương đem về Nhà thương Chợ Rẫy thì công an phát hiện, đem biệt giam bỏ luôn không chữa và không cho ăn uống. Nhưng có một sinh viên người Việt ở lứa tuổi của cô, vận động anh em tù gởi thuốc trụ sinh vào cho cô uống và đem cơm cho cô ăn. 2 tháng sau, cô lành bệnh vì bị một lằn đạn xuyên qua mông đít.
Trương Như Tảng, Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp trong Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời miền Nam. Sau này tôi xem báo biết cô ta bị kêu án 20 năm tù và bị đày ra Côn Đảo. Đến năm 1973 khi được trao đổi tù binh, cô được đưa về Hà Nội. Lần cô bị đem thủ tiêu năm 1968 có 2 người khác nữa là Lê Thị Riêng và Trần Văn Kiểu. Cả 3 người bị bắn ở đường Hồng Bàng, trước Trường Cây Mai. Riêng cô Phùng Ngọc Anh đã may mắn bị đạn nhưng không chết. Trong hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh VN, VC tố cáo hành động này của VNCH, rồi qua lời trình bày của Đỗ Thị Duy Liên (vợ Trần Bạch Đằng), là người đồng cảnh với Phùng Ngọc Anh, hội nghị Paris bị VC tẩy chay một tuần lễ để phản đối VNCH. Đó là năm 1969.
Hứa Hoành
Bình Luận:
Bài này được giáo sư Hứa Hoành viết theo trí nhớ nên có thể có một số chi tiết không đúng. Chẳng hạn vụ ba ông hòa bình được đưa ra Bắc xảy ra sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đã chấm dứt chứ không phải do chế độ Ngô Đình Diệm đưa ra Bắc. Về tổng quát, bài này nói về một số trí thức miền Nam thời đó được đảng Cộng Sản Việt Nam lôi kéo để lập ra các tổ chức độc lập với chính quyền miền Nam, không chủ trương chống Cộng như chính quyền miền Nam với mục đích là để phân hóa nội bộ miền Nam, không để cho miền Nam trở thành một khối đoàn kết nhất trí chống Cộng Sản. Vì chỉ dùng những trí thức đó với mục đích tạm thời là phân hóa nội bộ miền Nam nên các trí thức đó có cảm tình với đảng Cộng Sản Việt Nam đến mức nào thì không quan trọng, miễn sao họ làm đúng theo quĩ đạo của đảng CSVN vạch ra, là lên tiếng đòi hòa bình, không dùng vũ lực chống Cộng. Trong khi đó thì đảng CSVN ra sức dùng lực lượng vũ trang để tấn công miền Nam với mục đích đánh chiếm miền Nam.
Vì chỉ dùng tạm thời nên các trí thức đó chỉ được sử dụng khi chế độ miền Nam chưa bị CS chiếm. Sau 1975, nhiều trí thức trong các phong trào này sống trong im lặng vì chế độ không cần đến họ nữa và họ cũng chẳng có quyền lực gì trong thời gian hoạt động.
Người miền Nam cho rằng các trí thức này bị đảng CSVN đánh lừa, lợi dụng. Nhưng trong số tên tuổi xuất hiện trong các phong trào đó ai là người bị đánh lừa và ai là người đi lừa thì đến ngày nay cũng không thật sự rõ ràng vì nhiều người vào thời đó là đảng viên, nhận chỉ thị của đảng CSVN để lôi kéo trí thức nhưng họ dấu tung tích của họ. Nên có khi kẻ tưởng là bị lừa thật sự lại là kẻ đi lừa. Một số người mà dân miền Nam thời đó tưởng chỉ là thân cộng, nghĩa là có cảm tình với CS, thì thật sự là đảng viên đảng CSVN. Chẳng hạn, trong số ba ông hòa bình bị chính quyền miền Nam đưa ra Bắc vào thời sau 1963 có giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ đã là đảng viên từ năm 1947 nhưng ông ta đâu có dại gì nói ra mình là đảng viên vào thời đó mà chỉ nói mình là trí thức chống chiến tranh, muốn hòa bình. Cũng như bà Nguyễn Thị Bình trả lời với nhà báo ngoại quốc năm 1965 là mình không phải là đảng viên như thật ra là bà đã gia nhập đảng Cộng Sản từ năm 1948. Ông Tôn Thất Dương Kỵ kêu gọi dân miền Nam hãy theo đường lối hòa bình đừng cầm súng chống lại miền Bắc trong khi đồng chí của ông thì đem toàn lực tấn công miền Nam để đánh chiếm miền Nam. Trong số người thấy mình bị lừa có ông Trương Như Tảng. Sau 1975, ông thấy những gì đảng CS làm không giống như những gì đã hứa là để miền Nam theo chế độ không cộng sản, có nhiều thành phần chính trị tham dự, nên ông đã vượt biên, rồi sang Pháp sống quãng đời còn lại.
Về mặt lãnh thổ, khi đảng CSVN cần Trung Cộng viện trợ vũ khí thì đảng dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng. Trong bài trên, đảng CSVN dâng cho Cam Bốt năm hòn đảo ở gần Cam Bốt. Xem ra đảng CSVN xem nhẹ lãnh thổ quốc gia, khi cần ngoại bang giúp mình việc gì thì không ngần ngại cắt đất dâng cho ngoại bang. Nói chung chính sách của đảng CSVN là có thể làm bất cứ chuyện gì miễn là đạt được cái lợi trước mắt. Khi cần tiêu diệt các phe phái đối lập thì bịa đặt, vu khống để giết họ, hứa hẹn những cái mình sẽ không làm để lôi kéo người hoạt động cho mình, xuyên tạc, bịa đặt lịch sử miễn sao có lợi cho mình, còn dân tộc bị nhiễm các hiểu biết lầm lạc thì mặc kệ.
http://bit.ly/1CbzVCn
Sưu tầm
Bạn đang xem bài viết Họp Mặt Truyền Thống Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!