Xem Nhiều 5/2023 #️ Mốc Son Chói Lọi Trong Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam # Top 13 Trend | Caffebenevietnam.com

Xem Nhiều 5/2023 # Mốc Son Chói Lọi Trong Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam # Top 13 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Mốc Son Chói Lọi Trong Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta trải qua 21 năm, từ năm 1954, kết thúc thắng lợi năm 1975, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều mất mất mát hy sinh, thách thức và ác liệt.

Vào cuối năm 1974 đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi nhanh có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.

Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế – Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”.

Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông. Vào lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Chiến thắng mùa xuân 1975 có được do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bac Hồ, hy sinh quên mình vì độc lập tự do cho Tổ quốc. Đặc biệt, sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đã tạo nên sức mạnh to lớn. Không những thế, chúng ta đã kết hợp súc mạnh dân tộc và sức nạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Kế thừa tinh thần trong chiến đấu, chúng ta đang từng bước khẳng định mình trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam ngày càng có uy tín trên chính trường Quốc tế, là nơi tin cậy để đăng cai tổ chức các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ quốc tế và khu vực. Về kinh tế, trong khi nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam vẫn chứng tỏ sức hút của thị trường mới hội nhập và tiềm năng lớn lao của một nền kinh tế trẻ năng động với nhiều thành tựu và kỷ lục mới. Năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam đạt và vượt toàn bộ các chỉ tiêu chủ yếu Quốc hội giao. Việt Nam cũng là nước chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu vô cùng tích cực và hiệu quả. Với dịch covid 19, cả thế giới điêu đứng vì những thiệt hại trên hầu hết các lĩnh vực, Việt Nam cơ bản vẫn kiểm soát mọi tình huống với phương châm “Không ai bị bỏ lại phía sau”. Việt Nam một lần nữa được dư luận Quốc tế đánh giá cao trong công tác phòng chống dịch civid 19 hiện nay.

Với những thành quả trong lịch sử và hiện nay, chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, vào tinh thần yêu nước quật cường, bất khuất và trí thông minh, sáng tạo, doàn kết của dân tộc ta, của quân đội ta, nhân dân ta.

Các thế hệ người dân Việt Nam chúng ta hôm nay tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

Nguồn: chúng tôi

Quân Khu 2 – Chiến Thắng Điện Biên Phủ – Mốc Son Chói Lọi Của Lịch Sử Dân Tộc

QK2 – Hôm nay, ngày 7-5, ngày này 66 năm về trước, quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, anh dũng của quân và dân ta. Đây là một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Từ năm 1953, tình hình chiến trường Đông Dương có nhiều thay đổi bất lợi cho thực dân Pháp. Lợi dụng lúc thực dân Pháp gặp khó khăn, Mỹ đã tìm cách nhảy vào Việt Nam, tăng cường viện trợ, cơ quan Viện trợ quân sự MAAG ở Việt Nam. Tháng 7-1953 “Kế hoạch Na-va” được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua hòng “tìm cách thoát ra khỏi cuộc chiến tranh ở Đông Dương trong danh dự” trong vòng 18 tháng. Theo kế hoạch này chủ trương tăng quân Pháp và quân ngụy, rút bớt lực lượng chiến đấu về tập trung xây dựng thành lực lượng cơ động mạnh. Trong Đông Xuân 1953-1954, quân Pháp giữ thế phòng ngự, tránh những cuộc đụng độ trên diện rộng với ta ở miền Bắc, tập trung đánh chiếm miền Trung và Nam Đông Dương. Sang Đông Xuân 1954-1955, sẽ đem toàn lực ra quyết chiến với chủ lực ta ở miền Bắc, giành thắng lợi quyết định.

Về phía ta, dựa trên phương hướng chiến lược của Hội nghị lần thứ IV Trung ương Đảng họp tháng 1-1953 là: “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, đánh chắc thắng”, tháng 9-1953, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng mà địch tương đối yếu, buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ. Bộ Chính trị nhấn mạnh phương châm hành động là “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến là: “Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt; chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh; giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán…”. Tây Bắc là một hướng chiến lược Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã lựa chọn.

Để phá tan kế hoạch Na-va, mở đầu kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, ta chủ động mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, lấy Tây Bắc làm hướng chính. Tháng 11-1953, Đại đoàn 316 được lệnh tiến quân lên Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, phần đất cuối cùng còn lại ở Tây Bắc nằm trong tay quân đội Pháp.

Bị uy hiếp ở chỗ sơ hở nhất, phát hiện ra Đại đoàn 316 đang hành quân hướng lên Tây Bắc, sợ mất Tây Bắc và hòng che chở cho Thượng Lào, trong 3 ngày từ 20 đến 22-11-1953, tướng Na-va vội vã tiến hành cuộc hành binh “Chuột biển” (casta), cho 6 tiểu đoàn dù thiện chiến và một số đơn vị pháo binh nhảy dù chiếm đóng thung lũng Điện Biên Phủ. Ngày 3-12-1953, Na-va hạ quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh và quyết định: Tiếp nhận giao chiến với chủ lực Việt Minh ở Tây Bắc, lấy Điện Biên Phủ làm trung tâm. Ngày 5-12-1953, các đơn vị đồn trú ở Điện Biên Phủ được chuyển thành “Binh đoàn tác chiến Tây Bắc” (GONO) và ngày 7-12-1953 Na-va quyết định rút toàn bộ quân lính từ Lai Châu về tăng cường cho Điện Biên Phủ. 

Trước tình hình đó, Tổng Quân ủy ta nhận định: “Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta và chủ trương: Giữ địch ở lại Điện Biên Phủ và ta có thể đánh địch ở Điện Biên Phủ”. 

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp nghe Tổng Quân uỷ báo cáo quyết tâm và phương án tác chiến. Sau khi phân tích kỹ tình hình địch, ta, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và phương án tác chiến của Tổng Quân uỷ. 

Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho bộ đội chủ lực các mặt trận nhanh chóng bước vào tiến công địch. Các đại đoàn chủ lực được lệnh tiến quân lên Tây Bắc. Ngày 10-12-1953 ta tiến công địch ở Lai Châu, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 bắt đầu.

Diễn biến Chiến dịch Điện Biên Phủ

Theo kế hoạch của Tổng Quân ủy, Sư đoàn 316 đang đóng quân ở Thanh Hóa hành quân theo dọc Sông Mã, tiến về Tây Bắc tiêu diệt địch ở  thị xã Lai Châu.

Để ngăn chặn bộ đội ta tiến đánh thị xã Lai Châu, ngày 2/11/1953, Na-va chỉ thị cho tướng Cô-nhi: từ ngày 15 đến ngày 20/11/1953, chậm nhất là ngày 1/12/1953, phải đánh chiếm Điện Biên Phủ để thiết lập một cứ điểm, ngăn chặn Việt Minh, bảo vệ cho Thượng Lào.

Cuộc hành quân đánh chiếm Điện Biên Phủ của Pháp có bí danh là ”Hải Ly”, Chỉ huy là tướng Jean Gilles (Jin Gin- lơ). Ngày 20/11/1953, Pháp điều động 63 chuyến máy bay C-47 Dakota thả 3.000 lính dù đầu tiên xuống Điện Biên Phủ. Tại đây Pháp xây dựng thành 49 cứ điểm, 3 phân khu trung tâm, 8 trung tâm đề kháng gồm 17 tiểu đoàn, 7 đại đội độc lập với tổng số 16.200 quân tinh nhuệ nhất lúc bấy giờ. Pháp muốn kết thúc chiến tranh có lợi theo cách của Pháp.

Tướng Cô-nhi nhấn mạnh: Điện Biên Phủ là một căn cứ bộ binh, không quân lý tưởng, nó là “chiếc chìa khoá” ở Thượng Lào của Pháp.

Lực lượng Pháp được tổ chức thành 3 phân khu:

Một là, Phân khu phía Bắc, gồm đồi Him Lam, đồi Độc lập có nhiệm vụ án ngữ phía bắc, ngăn chặn con đường từ Lai Châu về Điện Biên Phủ.

Hai là, Phân khu Trung tâm, gồm các điểm cao phía đông, sân bay Mường Thanh, và các cứ điểm phía tây Mường Thanh; đây là khu vực mạnh nhất của quân Pháp, tập trung hai phần ba lực lượng (8 tiểu đoàn, gồm 5 tiểu đoàn chốt giữ và 3 tiểu đoàn cơ động).

Ba là, Phân khu phía Nam: thuộc cụm cứ điểm và sân bay Hồng Cúm 

Ngày 2/12/1953, tướng Nava hống hách ra lệnh cho cấp dưới chấp nhận giao chiến với Việt Minh tại Điện Biên Phủ.

Về phía ta

– Sau 8 năm kháng chiến, lực lượng đã mạnh lên gấp nhiều lần. Kể từ sau năm 1950 do nối thông biên giới với Trung Quốc, lại được sự viện trợ quân sự to lớn của Trung Quốc và Liên Xô, quân đội ta đã lớn mạnh rất nhiều, với các sư đoàn (đại đoàn) bộ binh và các trung đoàn pháo binh, công binh đã có kinh nghiệm đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn của quân Pháp trong phòng ngự kiên cố.

Tuy vậy, trong lịch sử đánh Pháp, đến lúc này, ta chưa  đánh một tập đoàn cứ điểm nào của Pháp; địa bàn Điện Biên Phủ xa hậu phương 500 km, lương thực, thực phẩm không đủ, đường tiếp tế duy nhất lên Điện Biên Phủ là đường số 6, thì bị Pháp dùng pháo binh và máy bay khống chế. Đưa một khối lượng cơ sở vật chất đến đây quả thực là một việc phi thường.

Bộ Tổng Tư lệnh nhìn nhận rằng: trận Điện Biên Phủ là cơ hội đánh tiêu diệt lớn, tạo nên chiến thắng vang dội để chấm dứt kháng chiến trường kỳ; quyết định: ”Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh, trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương”.  Vì vậy, từ phương châm chọn nơi địch yếu nhất, sơ hở nhất để đánh, 16 ngày sau Tổng Quân uỷ quyết định thay đổi kế hoạch chọn chỗ mạnh nhất của địch để đánh.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị đồng ý mở chiến dịch Điện Biên Phủ, với phương châm: “Đánh nhanh thắng nhanh”.

– Bộ Tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ được thành lập, Bác Hồ giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Đảng uỷ, kiêm Tư lệnh Mặt trận, trước khi ra trận Bác nói: “Bác giao cho chú toàn quyền, tướng quân tại ngoại, trận này chắc thắng thì đánh, không chắc thắng không đánh”.

Ngày 25/1/1954, tại cuộc họp Đảng ủy Mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp suy nghĩ: phương án ”Đánh nhanh thắng nhanh” mang nhiều yếu tố chủ quan, không đánh giá đúng tình hình thực lực của hai bên, không thể đảm bảo chắc thắng. Cuối cùng Đại tướng quyết định dừng trận đánh, kéo pháo ra, chuyển phương án từ “đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc”

Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia thành ba giai đoạn

 Giai đoạn 1:Từ 13/3 đến 17/3/1954, ta tiêu diệt phân khu phía Bắc của Pháp, lực lượng tiêu diệt các cứ điểm Him Lam, đồi Độc Lập và trung tâm đề kháng Bản Kéo.

Quân ta đã tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; Pi rốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát. 

Giai đoạn 2: từ 30/3 đến 30/4, ta tiến đánh phân khu trung tâm, đặc biệt là các điểm cao quan trọng phía Đông, vây lấn bóp nghẹt Tập đoàn cứ điểm.

 Quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho Tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

Giai đoạn 3: từ ngày 1 đến 7/5/1954. quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.

Kết quả chiến dịch

Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, là trận đầu đánh thắng Mỹ, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào năm 1975

 Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Về nghệ thuật chiến dịch, nổi lên là: Đã xác định phương châm và cách đánh chiến dịch đúng đắn, tạo ưu thế, thế trận vững chắc, đảm bảo sự chắc thắng cho từng trận đánh trong điều kiện địch có ưu thế về hỏa lực, xe tăng và máy bay; triển khai thực hiện tác chiến hiệp đồng binh chủng (bộ binh, pháo binh, pháo phòng không); xây dựng trận địa tiến công và bao vây, tạo và nắm thời cơ; phát triển chiến thuật đánh địch trong công sự vững chắc… Về chiến thuật, đó là cách vận dụng linh hoạt cách thức chiến đấu, tiến công trận địa bằng sự hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh và pháo binh; vừa vây lấn vừa tiến công, đánh chiếm các cứ điểm, cụm cứ điểm, vừa phòng ngự, bám trụ đánh địch phản kích, tạo bàn đạp đánh chiếm các mục tiêu tiếp theo; kết hợp tác chiến giữa tiến công và phòng ngự là hình thức tác chiến mới, biểu hiện sự phát triển linh hoạt, sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

K.B (th)

Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam

Thành lập: 20 tháng 12, 1960. Giải thể: 31 tháng 1, 1977. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, dân tộc chủ nghĩa cánh tả, hoạt động chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa và sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Đây là tổ chức kế thừa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Mặt trận của cả nước từ Bắc đến Nam) ở miền Nam (được công nhận bởi các tài liệu sau năm 1975) nhằm chống lại Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam.

* Trong các chiến dịch Tố Cộng của mình năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã phổ biến cụm từ vc để chỉ những người “Cộng sản Việt Nam”- viết ngắn gọn của từ Việt Nam Cộng-sản, (Vietnamese communist). Sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập, nhiều người Nam Việt Nam cũng gọi những người tham gia Mặt trận này là “vc”.

Người Mỹ đọc là V.C (nguyên nhân nữa là do hai chữ cái V và C lần lượt được phát âm là Victor và Charlie theo bảng mẫu tự ngữ âm của NATO). Charlie cũng trở thành cách mà người Mỹ gọi cộng sản nói chung, bao gồm cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bom Đại sứ quán Mỹ, ngày 30/3/1965.

Quân giải phóng miền Nam- được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập, là một lực lượng quân sự mà nòng cốt là những người từng tham gia Việt Minh đồng thời bao gồm cả một số người từng là thành viên Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên.

Mỹ ước tính vào giữa 1962 miền Nam Việt Nam có khoảng 2.500 làng, chiếm khoảng 85% tổng dân số, Mặt trận Giải phóng kiểm soát hiệu quả 20% số làng, ước tính 9% dân số nông thôn, tổng diện tích những ngôi làng này bao phủ một tỷ lệ lớn hơn nhiều ở vùng nông thôn. Ngược lại, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát có hiệu quả khoảng 47% dân cư nông thôn và 33% số làng, phần lớn nằm ở vùng ven của các thành phố lớn, thị xã và các khu vực dân cư đông đúc hơn dọc theo các đường chính. Trong 47% vùng nông thôn và 44% dân cư nông thôn còn lại, không phải là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng không phải là Mặt trận Giải phóng kiểm soát có hiệu quả, mặc dù Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ảnh hưởng dường như lớn hơn trong hầu hết những ngôi làng này. Theo tài liệu của Mỹ, tới năm 1965, Mặt trận Giải phóng đã kiểm soát lên đến 50% vùng nông thôn ở miền Nam Việt Nam.

Theo tài liệu phía cách mạng, năm 1962 phía cách mạng kiểm soát 76% lãnh thổ và 50% dân số toàn miền Nam. Từ 1964 đến 1965, vùng do Mặt trận kiểm soát chiếm 3/4 diện tích và 2/3 dân số miền Nam [20]. Năm 1968 Mặt trận quản lý 10/14 triệu người, trong đó “4 triệu sống trong vùng giải phóng và ít nhất 6 triệu rưỡi người nữa thuộc quyền cai trị bí mật của Mặt trận trong các vùng danh nghĩa là của Mỹ và Sài Gòn kiểm soát” (wiki)

Một con tem bưu chính của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam

Xem Thêm những ảnh xưa cùng chuyên mục Nhân Vật Lịch Sử khác

Vai Trò Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Trong Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Xuân Mậu Thân 1968

1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam – người đại diện chân chính, duy nhất, tổ chức và lãnh đạo các lực lượng yêu nước ở miền Nam Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập ngày 20/12/1960 tại xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Đến ngày 15/2/1961, các lực lượng vũ trang trên toàn miền Nam thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam, do Bộ Tư lệnh Các lực lượng vũ trang Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ huy, đồng thời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã làm lễ kết nạp lực lượng Quân giải phóng là thành viên chính thức. Như vậy, có thể thấy về mặt tổ chức công khai, Quân giải phóng là lực lượng quân sự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Để chuẩn bị cho việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược nhằm đánh bại chiến tranh xâm lược của Mỹ trong năm 1968, từ tháng 12/1967, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp và ra Nghị quyết về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Nghị quyết nêu rõ: “Tấn công quân sự trên các chiến trường và sự nổi dậy của đô thị lớn là hai mũi tiến công chính kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau và thúc đẩy toàn bộ cuộc tổng tiến công và tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn – Nam Bộ và Trị Thiên – Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế và các thành phố lớn”(1). Đến tháng 1/1968, tại Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sau khi đánh giá thắng lợi to lớn của quân dân ta trong việc đánh bại Chiến lược Chiến tranh cục bộ của Mỹ, đã quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Hội nghị xác định nhiệm vụ trọng đại cấp bách trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta lên bước phát triển cao hơn. Dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định, đạt mục tiêu chiến lược, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ. Về Mặt trận, nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh, cần thành lập một Mặt trận thứ hai bên cạnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, lấy một tên thích hợp và Cương lĩnh rộng rãi hơn Cương lĩnh của Mặt trận. Thực hiện chủ trương, đường lối chỉ đạo cuộc Tổng tiến công do Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra, đúng 18 giờ ngày 30/1/1968 (đêm mồng một Tết Mậu Thân), Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lệnh cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng và đồng bào miền Nam nhất tề xông lên diệt thù: “Các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng, các lực lượng đấu tranh chính trị, toàn thể hội viên các hội giải phóng hãy sát cánh cùng các lực lượng yêu nước khác và toàn thể đồng bào nhất tề xông lên, quyết trừng trị đích đáng quân Mỹ xâm lược và bọn Thiệu – Kỳ tay sai bán nước”(2). Đây là văn kiện chính thức công khai về mệnh lệnh cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968.

Sau mệnh lệnh của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, lần lượt các tổ chức thành viên thuộc Mặt trận đều ra Lời kêu gọi gửi tới các hội viên, cũng như toàn thể đồng bào miền Nam Việt Nam hưởng ứng và chấp hành mệnh lệnh Tổng tiến công và nổi dậy. Lời kêu gọi của Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 2/2/1968 ghi rõ: “Hãy siết chặt hàng ngũ, dũng cảm xốc tới, kiên quyết chấp hành lệnh tiến công của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”(3). Tiếp đó là các tổ chức, đoàn thể, như: Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam (ngày 11/2); Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng, Hội Liên hiệp Sinh viên giải phóng (ngày 17/2).

Đối với các lực lượng vũ trang, ngay sau mệnh lệnh của Đoàn Chủ tịch, Bộ chỉ huy Các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam ra Thông cáo đặc biệt cùng Lời kêu gọi: “Kiên quyết chấp hành mệnh lệnh của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, toàn thể cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhận rõ trách nhiệm trước nhân dân, Tổ quốc”(4). Tiếp đó, trong các Bản Thông cáo số 2 (ngày 6/2) và số 3 (ngày 26/2) ghi rõ: Thừa lệnh Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam kêu gọi toàn quân, toàn dân thừa thắng xông lên quyết giành toàn thắng. Bản Thông cáo số 4 của Bộ chỉ huy Các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam (ngày 19/3) còn khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đối với các lực lượng vũ trang và chủ trương Tổng tiến công: “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam người cổ vũ và tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta ở miền Nam. Chủ trương của Mặt trận mở cuộc tiến công và nổi dậy vĩ đại là hoàn toàn chính xác”(5).

Ngay sau khi mệnh lệnh được công bố, quân dân miền Nam đã tiến hành tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não, căn cứ quân sự, hệ thống giao thông thủy bộ, kho tàng của địch ở hầu khắp các thành phố thị trấn, thị xã và những vùng nông thôn còn bị địch kiểm soát suốt từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, chiếm một số nơi, phát động quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy cơ sở của chế độ Sài Gòn.

2. Mặt trận phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kêu gọi toàn dân đoàn kết nổi dậy

Để giành thắng lợi trong Tổng tiến công, không thể chỉ dựa vào vai trò của các lực lượng vũ trang, cách tốt nhất là kết hợp giữa công tác quân sự và nổi dậy của quần chúng. Mối quan hệ giữa công kích và nổi dậy là mật thiết. Quá trình tổng tiến công và nổi dậy là một cuộc chiến đấu của quần chúng cách mạng về cả vũ trang lẫn chính trị. Yêu cầu đặt ra cho tổng khởi nghĩa là: Đập tan các cơ quan chỉ huy đầu não, làm tan rã hệ thống kìm kẹp của địch, thành lập chính quyền cách mạng, do vậy chỉ có phát huy sức mạnh tổng hợp, vừa đánh vừa phát triển lực lượng thì mới thực hiện được yêu cầu. Cuộc tổng tiến công phải có tính chất quần chúng thực sự. Nếu chỉ riêng bộ đội chủ lực, hay bất kỳ một lực lượng nào và nếu không có sự chuẩn bị tốt thì không thể nào làm được.

Bên cạnh việc ban hành mệnh lệnh Tổng tiến công, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam còn ra Lời kêu gọi gửi tới toàn thể đồng bào đứng lên đoàn kết trong Mặt trận, cùng nổi dậy giành chính quyền. Ngày 1/2/1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kêu gọi công chức, viên chức, nhân viên, binh sĩ chính quyền Sài Gòn trở về với nhân dân, gia nhập hàng ngũ Mặt trận: “Những người đang ở ngã ba đường hãy bỏ đời lính đánh thuê cho giặc về với quê hương, hãy quay súng bắn vào bọn Việt gian, cùng nhân dân đánh bại quân Mỹ, cứu nước lập công. Các bạn binh sĩ hãy khởi nghĩa chống Mỹ – Thiệu và ly gián với đội quân bán nước. Chúng tôi sẵn sàng đón tiếp các bạn trở về với nhân dân và cũng sẵn sàng để các bạn gia nhập Mặt trận”(6).

Ngày 3/2/1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kêu gọi toàn quân, toàn dân, các tầng lớp nhân dân ở thành thị và các vùng tạm thời bị địch kiểm soát; nhân dân vùng mới giải phóng; đồng bào vùng giải phóng cũ và vùng căn cứ cách mạng hãy đoàn kết không phân biệt già, trẻ, tín ngưỡng, tôn giáo, thừa thắng xông lên. Đồng bào thành lập các đội vũ trang tự vệ bảo vệ chính quyền cách mạng, tổ chức lại sản xuất và chiến đấu để phục vụ tiền tuyến.

Chuẩn bị cho giải pháp chính trị sau khi giải phóng bằng tiến công và nổi dậy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam còn mở rộng khối liên minh, đoàn kết toàn dân tộc, nhằm tranh thủ đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân.

Ngày 20/4/1968, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (LMCLLDTDC và HB Việt Nam) ra đời. Uỷ ban Trung ương do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch, Hòa thượng Thích Đôn Hậu và Kỹ sư Lâm Văn Tết đồng Phó Chủ tịch. LMCLLDTDC và HB Việt Nam chủ trương đoàn kết mọi lực lượng và cá nhân yêu nước, kiên quyết chống ngoại xâm, đánh đổ toàn bộ chế độ bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ, thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc, giành độc lập, dân chủ và hòa bình. Bản Tuyên ngôn cứu nước của Liên minh khẳng định 3 điểm chương trình hoạt động: Chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình, giành độc lập và chủ quyền dân tộc; Kiến tạo Nam Việt Nam thành một quốc gia độc lập, tự do, hòa bình, trung lập và thịnh vượng; Tiến tới hòa bình, thống nhất nước nhà trên cở sở hai miền Nam Bắc bàn bạc, thương lượng bình đẳng và tôn trọng đặc điểm của nhau(7). Thừa nhận vai trò và cống hiến của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trong sự nghiệp chiến đấu chống ngoại xâm, Liên minh chủ trương hợp tác với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, khẳng định Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam không thể vắng mặt trong việc giải quyết mọi vấn đề ở miền Nam Việt Nam.

Có thể thấy sự ra đời của LMCLLDTDC và HB Việt Nam đã đánh dấu bước phát triển mới của khối đại đoàn kết toàn dân, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trên các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao trong giai đoạn mới. Triệt để cô lập đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, làm phân hóa thêm địch đến mức cao nhất, tập hợp thêm những cá nhân và tầng lớp trung gian tại các đô thị đứng lên chống Mỹ. Liên minh độc lập với Mặt trận, nhưng thực hiện liên minh với Mặt trận và tất cả những người muốn đấu tranh cho miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập. Trong thành phần lãnh đạo Liên minh có ông Tôn Thất Dương Kỵ giữ vai trò Tổng Thư ký, nhưng trước đó từ năm 1964, với bí danh Dương Kỳ Nam, ông đã là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. LMCLLDTDC và HB Việt Nam ra đời là một sự kiện chính trị có tầm quan trọng to lớn, đánh dấu bước phát triển mới có ý nghĩa của khối đại đoàn kết chống Mỹ cứu nước của toàn dân ta, đánh dấu sự phá sản toàn diện của cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, sự cô lập cao độ và sụp đổ không thể nào tránh khỏi của ngụy quyền tay sai.

3. Mặt trận tổ chức và thành lập chính quyền cách mạng nhân dân tại các vùng mới giải phóng

Một trong những nhiệm vụ và mục tiêu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy là thành lập chính quyền nhân dân, nhằm thay thế chính quyền bù nhìn phản động của Chính thể Việt Nam Cộng hòa. Nghị quyết Hội nghị 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1/1968) cũng xác định: Việc tổ chức chính quyền nhân dân cần có tính chất liên hiệp rộng rãi, phù hợp với sách lược của Mặt trận. Cần chuẩn bị những người tiêu biểu để đưa vào chính quyền liên hiệp dân tộc.

Trong việc thực hiện nhiệm vụ này, vai trò của Mặt trận hết sức quan trọng khi đã vận động được nhiều nhân sĩ yêu nước và người có uy tín đứng ra đảm nhiệm các công việc chính quyền. Huế là đô thị miền Nam thành công nhất trong việc thành lập và tổ chức hoạt động chính quyền mới. Ngày 14/2/1968, đại diện các lực lượng cách mạng tỉnh Thừa Thiên – Huế đã họp thành lập Uỷ ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên – Huế làm cơ quan đại biểu cho ý chí và quyền lợi của nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Ủy ban do ông Lê Văn Hảo làm Chủ tịch. Nhiệm vụ của Ủy ban là: Tăng cường đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh cuộc đấu tranh vũ trang, chính trị và binh vận; lãnh đạo nhân dân sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng y tế, văn hóa, giáo dục, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân(8). Sau Uỷ ban nhân dân cách mạng thành phố, các Uỷ ban nhân dân cách mạng phường lần lượt được thành lập. Ngày 15/2, Uỷ ban nhân dân cách mạng ra Thông cáo số 1 nêu rõ: Xóa bỏ các tổ chức ngụy quyền của bè lũ bán nước Thiệu, Kỳ từ tỉnh, thành phố đến thôn xã; Thừa nhận Uỷ ban nhân dân cách mạng các cấp huyện, xã, quận, khu phố do nhân dân và quân khởi nghĩa đã lập ra, coi đó là chính quyền hợp pháp duy nhất của nhân dân; thi hành các biện pháp bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tôn trọng các quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng, đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm,… Đặc biệt, bản Thông cáo còn thể hiện rõ chủ quyền khi ra tuyên bố: “Quân đội Mỹ không được can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam, phải đóng quân tại chỗ. Mọi việc di chuyển quân phải được chính quyền cách mạng Việt Nam cho phép”(9).

Ngày 23/2/1968, toàn bộ lực lượng cách mạng tại Huế rút ra ngoài thành phố. Việc giữ được thành phố trong 25 ngày là lâu nhất so với các thành phố khác, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung về chính trị của Tổng tiến công và nổi dậy. Tuy lực lượng cách mạng đã rút khỏi Huế, nhưng hoạt động của Uỷ ban nhân dân Cách mạng vẫn được duy trì tiếp sau này với rất nhiều hoạt động cụ thể. Ngày 28/2/1968, Uỷ ban nhân dân Cách mạng ra Thông cáo số 2 đề ra các nhiệm vũ cấp thiết: “Với những vùng chiến sự còn giằng co, chú ý sơ tán đồng bào, hướng dẫn và vận động đồng bào còn ở lại đào hầm hào tránh máy bay, đại bác, bám ruộng vườn vừa chiến đấu vừa sản xuất, vệ sinh phòng bệnh chống những nạn dịch hoặc các bệnh truyền nhiễm có thể xảy ra; Đối với vùng mới giải phóng, ra sức củng cố chính quyền cách mạng, truy lùng bọn địch lén lút phá hoại..; Đối với thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ, chính quyền các cấp cần quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo; Đối với đồng bào ở nông thôn chạy vào thành phố nay trở về quê cũ cần đoàn kết, giúp đỡ mọi điều kiện để làm ăn, ổn định đời sống; Đối với ngụy quân, ngụy quyền đã trở về với nhân dân, cần giáo dục, giúp đỡ họ làm ăn lương thiện”(10). Ngày 20/4, Uỷ ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên – Huế ra nhiệm vụ mới cho quân dân toàn tỉnh: Bám sát ruộng vườn, tích cực sản xuất và chiến đấu, giữ vững và bảo vệ vùng giải phóng, đóng góp nuôi quân, đoàn kết giúp đỡ đồng bào sơ tán; thừa thắng xông lên tiếp tục tiến công và nổi dậy. Uỷ ban nhân dân Cách mạng cũng nghiên cứu các vấn đề ruộng đất, xây dựng dự toán ngân sách năm 1968, chuẩn bị xây dựng quy ước nông thôn nhằm đảm bảo thực hiện đời sống mới đoàn kết, vui tươi, lành mạnh.

Thắng lợi của Tổng tiến công đã tiêu diệt một bộ phận lớn quân địch. Ngụy quyền từ Trung ương tới địa phương bị rối loạn, tê liệt và tan vỡ với những mức độ khác nhau. Thế trận và so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi, tạo cục diện mới, thế chiến lược mới và những khả năng mới cho cuộc kháng chiến của ta, chiến lược Chiến tranh cục bộ của Mỹ bị phá sản, ý chí xâm lược của Mỹ bị lung lay, buộc Mỹ phải chịu đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chiến thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mang tầm vóc chiến lược to lớn. Góp phần vào chiến thắng này có công lao to lớn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thực hiện đúng Nghị quyết Trung ương 14 đề ra là: Chuẩn bị lực lượng, phát triển các tổ chức quần chúng; đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương và Cương lĩnh hoạt động của Mặt trận; thành lập được Liên minh, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc; thành lập chính quyền cách mạng tạo tiền đề để thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sau này.

2. Báo Nhân dân số 5043 năm 1968.

2. Báo Nhân dân số 5050 năm 1968.

4. Báo Nhân dân số 5046 năm 1968.

5. Báo Nhân dân số 5094 năm 1968.

6. Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam tập II (1954 – 1975), Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Nxb Chính trị quốc gia, tr.554.

7. Báo Nhân dân số 5131 năm 1968.

8. Báo Nhân dân số 5058 năm 1968.

9. Báo Nhân dân số 5060 năm 1968.

10. Báo Nhân dân số 5078 năm 1968.

Bạn đang xem bài viết Mốc Son Chói Lọi Trong Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!