Cập nhật thông tin chi tiết về Ngày Lễ Giải Phóng Miền Nam Tiếng Anh Là Gì, Miền Nam Việt Nam mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cách đọc và viết Ngày lễ Giải phóng Miền nam Thống nhất Đất nước tiếng Anh là gì, dịch nghĩa đầy đủ nhất để người nước ngoài có thể hiểu. Đây là ngày lễ quốc gia (Public Holiday) của Việt Nam, với nhiều cách gọi khác nhau trong tiếng Anh, mà chúng tôi sẽ giới thiệu đầy đủ để mọi người dùng tham khảo.
Đang xem: Miền nam tiếng anh là gì
“Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” tiếng Anh là gì?
Trong tên tiếng Việt, ngày lễ 30 tháng 4 có tên chính thứclà: “Ngày Giải phóng (hoàn toàn)miền Nam, thống nhất đất nước”, “Ngày Chiến thắng”,“Ngày thống nhất”, “Chiến thắng 30 tháng 4 lịch sử”.
Tên tiếng Anh phổ biến nhất của ngày lễ Giải phóng miền Nam,thống nhất đất nước là:
Liberation Day/Reunification Day – April 30 (Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước).
Liberation /libə’rei∫n/ – sự giải phóngeunification /’ri:ju:nifi’keiʃn/ – sự thống nhất, hợp nhất lại.Victory /’viktəri/ – chiến thắngNational /’næ∫nəl/ – (thuộc) quốc giaMark /mɑ:k/ – Đánh dấuIndependence /,indi’pendəns/ – Độc lậpThe south /saʊθ/ – miền Nam
Nhiều cách dịch sang tiếng Anh “Ngày giải phóng miền Nam”
Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước dịch sang tiếng Anh có thể dùng nhiều cụm từ khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng và cách nghĩ. Bạn có thể dùng cụm từ Reunification Day (Ngày Thống nhất), Victory Day (Ngày Chiến thắng) hay Liberation Day (Ngày Giải phóng hoặc Ngày Giải phóng miền Nam). Tên chính thức trong văn phong báo chí, văn bản cấp nhà nước thì dùng “Day of liberating the South for national reunification” (Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước).
Theo từ điển Wikipedia miêu tả ngày Giải phóng miền Nam, thốngnhất đất nước là ngày “is a publicholiday in Vietnam that marks the event when North Vietnamese and Việt Cộngforces captured Saigon (now Ho Chi Minh City) on April 30, 1975.” – Tạm dịch:“Đây là ngày lễ quốc gia Việt Nam, đánh dấusự kiện Bắc Việt Nam và Việt Cộng đánh bại Sài Gòn (Nay là TP.Hồ Chí Minh) vàongày 30 tháng 4 năm 1975”.
Hoặc có thể viết là ngày “Liberation of Saigon and reunification of Vietnam in 1975”, tạm dịch là “Giải phóng Sài Gòn và thống nhất Việt Nam năm 1975”. Hay “Vietnam Independence Day 30 April”, tức “Ngày độc lập Việt Nam 30 tháng 4”.
Cách viết và đọc ngày giải phóng miền Nam 30 tháng 4
Chúng ta phải biết phát âm và viết các ngày trong tháng, tháng trong năm. Hiện tại, tiếng Anh có 2 cách viết, là viết ngày trước tháng sau và tháng trước ngày sau. Mỗi cách viết lại có quy tắc đọc riêng mà chúng tôi sẽ hệ thống lại cho mọi người dễ nhớ.
-Ngày 30: thirtieth – /ˈθɜː.ti.əθ/
-Tháng 4: April – UK: /ˈeɪ.prəl/
-Năm 1975: nineteen seventy five – /ˌnaɪnˈtiːn/ – chúng tôi /faɪv/
-Ngày trước, tháng sau: viết “On 30th April, 1975”đọc là “On the thirtieth of April, nineteen seventy five”.
-Tháng trước, ngày sau: viết “On April 30th, 1975”đọc là “April the thirtieth, nineteen seventy five”.
Dịch nghĩa Ngày lễ Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nướcViệt Nam trong tiếng Anh khá đa dạng, bạn có thể dựa trên những gợi ý củamister-map.com để dùng cho phù hợp. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều cách dùngkhác, từ phía những người dân dưới thời chính quyền cũ nói về ngày này là “Ngàytháng 4 đen tối”, “Ngày quốc hận”, “Ngày Sài Gòn thất thủ”. Nhưng đó là cáchnhìn của “bên thua cuộc” và không được chấp nhận tại Việt Nam. Chúng ta vẫn gọiđó là ngày lễ lớn “Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”, một ngày thiêngliêng của dân tộc sau 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vĩ đại.
Ngày Lễ Giải Phóng Miền Nam Thống Nhất Đất Nước Tiếng Anh Là Gì
Cách đọc và viết Ngày lễ Giải phóng Miền nam Thống nhất Đất nước tiếng Anh là gì, dịch nghĩa đầy đủ nhất để người nước ngoài có thể hiểu. Đây là ngày lễ quốc gia (Public Holiday) của Việt Nam, với nhiều cách gọi khác nhau trong tiếng Anh, mà chúng tôi sẽ giới thiệu đầy đủ để mọi người dùng tham khảo.
Trong tên tiếng Việt, ngày lễ 30 tháng 4 có tên chính thức là: “Ngày Giải phóng (hoàn toàn)miền Nam, thống nhất đất nước”, “Ngày Chiến thắng”, “Ngày thống nhất”, “Chiến thắng 30 tháng 4 lịch sử”.
Tên tiếng Anh phổ biến nhất của ngày lễ Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là:
Liberation Day/Reunification Day – April 30 (Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước).
Liberation /libə’rei∫n/ – sự giải phóng
eunification /’ri:ju:nifi’keiʃn/ – sự thống nhất, hợp nhất lại.
Victory /’viktəri/ – chiến thắng
National /’næ∫nəl/ – (thuộc) quốc gia
Mark /mɑ:k/ – Đánh dấu
Independence /,indi’pendəns/ – Độc lập
The south /saʊθ/ – miền Nam
Nhiều cách dịch sang tiếng Anh “Ngày giải phóng miền Nam”
Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước dịch sang tiếng Anh có thể dùng nhiều cụm từ khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng và cách nghĩ. Bạn có thể dùng cụm từ Reunification Day ( Ngày Thống nhất), Victory Day ( Ngày Chiến thắng) hay Liberation Day ( Ngày Giải phóng hoặc Ngày Giải phóng miền Nam). Tên chính thức trong văn phong báo chí, văn bản cấp nhà nước thì dùng “Day of liberating the South for national reunification” ( Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước).
Theo từ điển Wikipedia miêu tả ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là ngày ” is a public holiday in Vietnam that marks the event when North Vietnamese and Việt Cộng forces captured Saigon (now Ho Chi Minh City) on April 30, 1975.” – Tạm dịch: ” Đây là ngày lễ quốc gia Việt Nam, đánh dấu sự kiện Bắc Việt Nam và Việt Cộng đánh bại Sài Gòn (Nay là TP.Hồ Chí Minh) vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 “.
Hoặc có thể viết là ngày ” Liberation of Saigon and reunification of Vietnam in 1975“, tạm dịch là ” Giải phóng Sài Gòn và thống nhất Việt Nam năm 1975“. Hay ” Vietnam Independence Day 30 April“, tức ” Ngày độc lập Việt Nam 30 tháng 4 “.
Cách viết và đọc ngày giải phóng miền Nam 30 tháng 4
Chúng ta phải biết phát âm và viết các ngày trong tháng, tháng trong năm. Hiện tại, tiếng Anh có 2 cách viết, là viết ngày trước tháng sau và tháng trước ngày sau. Mỗi cách viết lại có quy tắc đọc riêng mà chúng tôi sẽ hệ thống lại cho mọi người dễ nhớ.
-Ngày 30: thirtieth – /ˈθɜː.ti.əθ/
-Tháng 4: April – UK: /ˈeɪ.prəl/
-Năm 1975: nineteen seventy five – /ˌnaɪnˈtiːn/ – chúng tôi – /faɪv/
-Ngày trước, tháng sau: viết “” đọc là “On the thirtieth of April, nineteen seventy five“.
-Tháng trước, ngày sau: viết “” đọc là “April the thirtieth, nineteen seventy five“.
Dịch nghĩa Ngày lễ Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Việt Nam trong tiếng Anh khá đa dạng, bạn có thể dựa trên những gợi ý của chúng tôi để dùng cho phù hợp. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều cách dùng khác, từ phía những người dân dưới thời chính quyền cũ nói về ngày này là “Ngày tháng 4 đen tối”, “Ngày quốc hận”, “Ngày Sài Gòn thất thủ”. Nhưng đó là cách nhìn của “bên thua cuộc” và không được chấp nhận tại Việt Nam. Chúng ta vẫn gọi đó là ngày lễ lớn “Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”, một ngày thiêng liêng của dân tộc sau 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vĩ đại.
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Trong Tiếng Tiếng Anh
Trước năm 1975, song thân của bà đều hoạt động cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Prior to 1975, her relatives were active in the National Front for the Liberation of South Vietnam.
WikiMatrix
Tháng 2 năm 1974, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hoan nghênh trận đánh năm 1961 tại Cassanje, trận mở đầu cho chiến tranh giành độc lập của Angola.
In February 1974, the National Liberation Front of South Vietnam (NLFSV) commended the 1961 attack on Cassanje, the first battle of Angola’s war of independence.
WikiMatrix
Mẹ và các anh chị của ông hoạt động bí mật cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, một người chị của ông bị quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa giết sau một trận đánh vào năm 1965.
His mother and siblings secretly worked for the National Front for the Liberation of South Vietnam, and his sister was killed by the US military and the South Vietnamese government after a battle in 1965.
WikiMatrix
Mặc dù Buckley thừa nhận cơ sở và tầm kiểm soát rộng lớn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại khu vực, ông vẫn viết rằng các bệnh viện khu vực đã phải chữa cho nhiều nạn nhân của hỏa lực Mỹ hơn là từ phía Mặt trận.
Although Buckley acknowledged that VC infrastructure and control in the region was extensive, he wrote that local hospitals had treated more wounds caused by U.S. firepower than by the VC.
WikiMatrix
Nguyên nhân chính của cuộc đảo chính là sự khoan dung của Norodom Sihanouk đối với các hoạt động của Bắc Việt trong phạm vi biên giới quốc gia, đồng thời cho phép cho phép các nhóm quân kháng chiến Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trang bị vũ khí hạng nặng nhằm kiểm soát thực tế trên khu vực rộng lớn ở miền đông Campuchia.
The main causes of the coup were Norodom Sihanouk’s toleration of North Vietnamese activity within Cambodia’s borders, allowing heavily armed Vietnamese Communist outfits de facto control over vast areas of eastern Cambodia.
WikiMatrix
Nhóm người này ban đầu được thành lập bởi một nhà sư Khmer Krom tên là Samouk Sen, tìm kiếm sự độc lập cho Khmer Krom và thường xuyên đụng độ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tổ chức được mở rộng trong những năm 1960 và sau này trở thành liên kết với FULRO, một tổ chức bán quân sự cho các nhóm dân tộc thiểu số Việt Nam.
This group, founded by a Khmer Krom monk named Samouk Sen, sought Khmer Krom independence and regularly clashed with the Viet Cong: it expanded in the 1960s and later became affiliated to FULRO, a paramilitary organisation for Vietnamese minority groups.
WikiMatrix
Tại chức, và được Kissinger hỗ trợ, Nixon đã thực hiện chính sách Việt Nam hóa nhằm rút dần quân đội Hoa Kỳ đồng thời mở rộng vai trò chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng hòa để có thể bảo vệ chính phủ độc lập chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, và quân đội Bắc Việt (Quân đội Nhân dân Việt Nam hoặc PAVN).
In office, and assisted by Kissinger, Nixon implemented a policy of Vietnamization that aimed to gradually withdraw U.S. troops while expanding the combat role of the South Vietnamese Army so that it would be capable of independently defending its government against the National Front for the Liberation of South Vietnam, a Communist guerrilla organization, and the North Vietnamese army (Vietnam People’s Army or PAVN).
WikiMatrix
Mặc dù Hoa Kỳ đã biết về sự tồn tại của các mật khu của lực lượng cộng sản Bắc Việt và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Campuchia từ năm 1966, Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson vẫn không cho tấn công các mật khu này, vì lo ngại phản ứng quốc tế, và rằng việc tấn công có thể khiến Sihanouk thay đổi lập trường.
Although the U.S. had been aware of the PAVN/Viet Cong sanctuaries in Cambodia since 1966, President Lyndon B. Johnson had chosen not to attack them due to possible international repercussions and his belief that Sihanouk could be convinced to alter his policies.
WikiMatrix
Ngày 12 tháng 3 năm 1970, khi Sihanouk đang thực hiện chuyến công du nước ngoài tại Bắc kinh, Sirik Matak lập tức hủy bỏ thỏa thuận thương mại của Sihanouk và Lon Nol hạ lệnh yêu cầu quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phải rời khỏi Campuchia vào lúc bình minh ngày 15 tháng 3 (thời hạn được thông qua mà không có bất kỳ phản ứng nào từ phía Việt Nam).
On March 12, 1970, while Sihanouk was on a trip abroad, Sirik Matak canceled Sihanouk’s trade agreements and Lon Nol demanded that all North Vietnamese and NLF troops leave Cambodia by dawn on March 15 (the deadline passed without any response from the Vietnamese).
WikiMatrix
Phong trào này diễn ra từ cuối năm 1959, đỉnh cao là năm 1960, nhanh chóng lan rộng khắp miền Nam làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở nông thôn của chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời tổng thống Ngô Đình Diệm, dẫn đến một phần đáng kể của nông thôn miền Nam đã thành vùng do những người cộng sản kiểm soát, dẫn đến sự thành lập của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
This movement took place from the end of 1959, culminating in 1960, rapidly spreading across the South, dissolving the rural government structure of the Government of the Republic of Vietnam under President Ngo Dinh Diem, leading to a significant part of rural Southern Vietnam gained control by the communists, leading to the founding of the Southern Vietnam National Liberation Front.
WikiMatrix
Đặc biệt, sự nhạy cảm dân tộc và thiên hướng chống cộng sản của Lon Nol và các cộng sự của ông hàm ý rằng họ không thể chấp nhận được chính sách bán khoan dung của Sihanouk đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong phạm vi biên giới Campuchia; riêng Sihanouk, trong quá trình nghiêng về cánh tả trong giai đoạn 1963-1966, đã thương lượng một thỏa thuận bí mật với Hà Nội theo đó sẽ đảm bảo nối lại việc thu mua lúa với giá cao, cảng Sihanoukville được mở cửa cho việc bốc dỡ và vận chuyển vũ khí cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
In particular, the nationalist and anti-communist sensibilities of Lon Nol and his associates meant that Sihanouk’s policy of semi-toleration of Viet Cong and People’s Army of Vietnam (PAVN) activity within Cambodian borders was unacceptable; Sihanouk, during his swing to the left in 1963–66, had negotiated a secret arrangement with Hanoi whereby in return for the guaranteed purchase of rice at inflated prices, the port of Sihanoukville was opened for weapons shipments to the Viet Cong.
WikiMatrix
30 tháng 3: Mặt trận Giải phóng Dân tộc bắt đầu tiến công ở miền Nam Việt Nam và chỉ bị đẩy lùi bởi quân đội miền nam với sự hỗ trợ lớn về đường không của Hoa Kỳ.
March 30: FNL goes to the offensive in South Vietnam, only to be repulsed by the South Vietnamese regime with major American air support.
WikiMatrix
Bốn mục tiêu của chiến dịch (phát triển theo thời gian) là: Cứu vãn tinh thần đang sa sút của chính phủ Việt Nam Cộng hòa; Ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngừng hỗ trợ cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam; Phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp, các lực lượng phòng không của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Ngăn chặn dòng quân và hàng hóa chảy vào miền Nam Việt Nam.
The four objectives of the operation (which evolved over time) were to boost the sagging morale of the Saigon regime in the Republic of Vietnam; to persuade North Vietnam to cease its support for the communist insurgency in South Vietnam without sending ground forces into communist North Vietnam; to destroy North Vietnam’s transportation system, industrial base, and air defenses; and to halt the flow of men and material into South Vietnam.
WikiMatrix
Ngày 8 tháng 4, đáp lại đề nghị đàm phán hòa bình, Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng tuyên bố rằng đàm phán chỉ có thể bắt đầu sau khi Mỹ ngừng ném bom; Mỹ rút toàn bộ quân ra khỏi miền Nam; chính phủ Sài Gòn thừa nhận các đòi hỏi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam; và các bên đồng ý rằng việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện bởi chính người Việt Nam.
On 8 April, responding to requests for peace negotiations, North Vietnamese premier, Pham Van Dong, stated that they could only begin when: the bombing was halted; the U.S. had removed all of its troops from the south; the Saigon government recognized the demands of the NLF; and it was agreed that the reunification of Vietnam would be settled by the Vietnamese themselves.
WikiMatrix
North Vietnam, in turn, supported the National Liberation Front, which drew its ranks from the South Vietnamese working class and peasantry.
WikiMatrix
Cú đòn tiếp theo vào hệ thống hậu cần đặt tại Campuchia đã được thực hiện vào mùa xuân và mùa hè năm 1970, khi quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa vượt qua biên giới và tấn công các khu căn cứ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam trong chiến dịch Campuchia.
A further blow to the logistical system in Cambodia had come in the spring and summer of 1970, when U.S. and ARVN forces had crossed the border and attacked PAVN/VC Base Areas during the Cambodian Campaign.
WikiMatrix
Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Và Những Bài Học Lịch Sử
Chào mừng kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1961-2021)
Tại Hội thảo khoa học Quân giải phóng miền Nam Việt Nam – Vai trò, ý nghĩa và bài học lịch sử do Bộ Quốc phòng phối hợp với Tỉnh ủy Đồng Nai tổ chức sáng 8-1, có 9 bài tham luận tiêu biểu trong tổng số gần 90 bài tham luận khoa học đã được các đại biểu trình bày.
Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường chào đón Quân giải phóng. Ảnh: TL/TTXVN
Các bài tham luận đã khẳng định chủ trương thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh chiến đấu, làm nên chiến thắng của QGPMNVN; ý nghĩa, vai trò của QGPMNVN đối với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của QGPMNVN, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
* Vai trò to lớn đối với cách mạng Việt Nam
Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Phó trưởng ban chỉ đạo hội thảo cho biết, dưới sự lãnh đạo của Đảng, QGPMNVN đã vượt qua muôn vàn gian khó, chấp nhận hy sinh, anh dũng, sáng tạo, chiến đấu quên mình, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng bằng Cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chặng đường vinh quang đó đã ghi đậm những dấu ấn chiến công, ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khẳng định chân lý: Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Báo cáo đề dẫn tại hội thảo, thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó trưởng ban chỉ đạo hội thảo đã nêu, với bản chất, hiếu chiến, đế quốc Mỹ đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Genevè, nhanh chóng nhảy vào miền Nam Việt Nam, dựng lên chính quyền bù nhìn tay sai Ngô Đình Diệm, áp đặt chính sách thực dân kiểu mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) khẳng định “xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang nhân dân là một trong những điều kiện quan trọng của cách mạng nước ta để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”. Quán triệt chủ trương của đại hội, tháng 1-1961, Tổng quân ủy ra chỉ thị thành lập QGPMNVN, trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Ngày 15-2-1961, tại Chiến khu Đ, QGPMNVN được chính thức tuyên bố thành lập.
Trung tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban Chỉ đạo Hội thảo khoa học cho hay: “Hội thảo là dịp để đánh giá, nhìn nhận lại quá trình xây dựng, chiến đấu, công lao, đóng góp của GPMNVN đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; khẳng định sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng trong tổ chức và sử dụng lực lượng vũ trang phục vụ nhiệm vụ chiến lược. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí độc lập, tự chủ, tinh thần quật khởi và khát vọng yêu chuộng hòa bình cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Đồng thời, đúc rút những bài học kinh nghiệm lịch sử để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”.
Khẳng định chủ trương thành lập QGPMNVN là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng, là nét đặc sắc của nghệ thuật sử dụng lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng, trong bài tham luận QGPMNVN – sự sáng tạo, linh hoạt về tổ chức biên chế của Quân đội nhân dân Việt Nam, Trung tướng Vũ Văn Sỹ, Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã đi sâu phân tích và khẳng định sự sáng tạo, linh hoạt về tổ chức biên chế; đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam, một thành công lớn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo trung tướng Vũ Văn Sỹ, QGPMNVN là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, chịu sự chỉ đạo trực tiếp, xuyên suốt của Đảng Lao động Việt Nam, là nòng cốt của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ được xây dựng và phát triển trên cơ sở các đội vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền của các địa phương miền Nam và lực lượng cán bộ, chiến sĩ, nhân viên kỹ thuật quân sự ở miền Bắc bổ sung, tăng cường.
Ngay sau khi ra đời, Quân giải phóng đã xây dựng, phát triển lực lượng, tập trung xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong đó, chú trọng phát triển bộ đội chủ lực cả về tổ chức biên chế và vũ khí trang bị. Tùy vào tình hình chiến sự thực tế, biên chế của Quân giải phóng cũng thay đổi để đáp ứng nhiệm vụ được giao.
Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh là một minh chứng cho sự lớn mạnh của Quân giải phóng về tổ chức lực lượng; trình độ tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng tác chiến với các quân chủng, binh chủng, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, thực hiện trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam.
Đồng tình với quan điểm này, trong tham luận Nghệ thuật tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng của QGPMNVN trong chống Mỹ, cứu nước, đại tá, PGS-TS Hoàng Xuân Nhiên, Khoa Chiến lược Học viện Quốc phòng cho rằng, trong chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta đã chủ động thực hiện hiệp đồng giữa đánh địch trên tuyến phòng thủ từ xa và đột phá tuyến phòng ngự cơ bản ở ven đô của địch với đánh địch bằng binh đoàn thọc sâu vào trung tâm thành phố; giữa cắt đường bộ với ngăn đường sông, khống chế đường không; giữa tiêu diệt, đánh tan bộ binh thiết giáp với chế áp trận địa pháo binh và bắn phá, ném bom làm tê liệt sân bay địch. Điểm rất mới là ta đã dùng máy bay lấy được của địch để ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, tạo nên sự phối hợp chiến dịch giữa trên không và mặt đất càng thúc đẩy tốc độ tiến công vào thời điểm rất quan trọng của địch. Nhất là, với các quân đoàn binh chủng hợp thành có sức đột kích mạnh, khả năng cơ động cao, phối hợp chặt chẽ với chiến tranh nhân dân ở các địa phương, chúng ta đã thực hành tác chiến hiệp đồng binh chủng với quy mô rất lớn, lần lượt đập tan những hệ thống phòng thủ kiên cố, loại khỏi chiến đấu từng quân đoàn địch, đánh chiếm các căn cứ quân sự lớn, giải phóng các thành phố, thị xã, đánh vào tận sào huyệt của địch, đánh đổ ngụy quyền, giải phóng miền Nam…
* Những bài học lịch sử còn nguyên giá trị
Được tuyên bố thành lập vào ngày 15-2-1961 đến khi kết thúc vai trò lịch sử vào ngày 7-7-1976, chặng đường xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của QGPMNVN đã làm nên những thắng lợi huy hoàng, để lại những bài học kinh nghiệm quý báu về lãnh đạo chỉ đạo của Đảng trong xây dựng và phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng; bài học về tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang phù hợp với hoàn cảnh và nhiệm vụ; phát huy sức mạnh chính trị – tinh thần, xây dựng ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ; về tư tưởng tiến công, sáng tạo trong thực hiện vụ, phát huy sức mạnh tổng hợp…
Báo cáo đề dẫn của thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cho rằng, hội thảo là dịp để ôn lại lịch sử hào hùng; bản chất, truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của QGPMNVN, của Quân đội nhân dân Việt Nam và nhân dân ta. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; phát huy ý chí tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn thử thách xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Hội thảo đã góp phần làm sáng tỏ, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ quá trình xây dựng, chiến đấu, phát huy vai trò của QGPMNVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là nền tảng khoa học vững chắc trong cuộc chiến chống âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch; đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, bồi đắp tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.
Trong tham luận Xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu cho QGPMNVN – bài học kinh nghiệm trong xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 7 hiện nay, thiếu tướng Hoàng Đình Chung, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 7 cho biết, vận dụng những kinh nghiệm xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu của QGPMNVN, việc xây dựng quyết tâm chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu 7 ngày nay tập trung vào một số nội dung sau: giáo dục bộ đội nhận rõ đối tượng, đối tác của cách mạng, đối tượng tác chiến của quân đội trong tình hình mới, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tập trung củng cố, tăng cường niềm tin, lý tưởng chiến đấu, làm cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vững tin vào thắng lợi của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tương lai, phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc, của quân đội, truyền thống trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng của lực lượng vũ trang Quân khu 7.
Xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh toàn diện, mẫu mực tiêu biểu, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở. Xây dựng Đảng bộ Quân khu trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang Quân khu và sự nghiệp quốc phòng. Chủ động, tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên internet, mạng xã hội, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Chủ động chia sẻ, lan tỏa những tin, bài, ảnh có nội dung tích cực, gương người tốt việc tốt… nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc, góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động.
Bên cạnh đó, thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách, dân vận, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nếp sống văn minh, “sáng, xanh, sạch, đẹp”; ngăn chặn, đẩy lùi tác động của mặt trái kinh tế thị trường, tệ nạn, tiêu cực trong xã hội đối với cán bộ, chiến sĩ.
Đại tá Lương Đình Lành, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 chia sẻ, Quân đoàn đã và đang tập trung xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, mẫu mực, tiêu biểu; xây dựng Đảng bộ Quân đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Nhân kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập QGPMNVN (1961-2021), Quân đoàn 4 tiếp tục phát huy truyền thống “Trung thành, đoàn kết, anh dũng, sáng tạo, tự lực, quyết thắng”, tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao…
Hạnh Dung
PGS-TS Nguyễn Đức Nhuệ, Phó viện trưởng phụ trách Viện Sử học (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam): Giải phóng quân anh dũng chiến thắng
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, QGPMNVN là đội quân chủ lực thực hiện nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, góp phần quan trọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, viết nên trang sử vàng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, để lại dấu ấn đậm nét trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Trải qua gần 15 năm (1961-1975), QGPMNVN, bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trường miền Nam, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của dân tộc giao phó, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QGPMNVN thật xứng đáng với 7 chữ vàng “Giải phóng quân anh dũng chiến thắng”, tung bay trên quân kỳ do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trao tặng ngay trong ngày thành lập.
Đồng chí Phạm Xuân Hà, Ủy viên Ban TVTU, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai: Khẳng định vai trò quan trọng của Chiến khu Đ
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Chiến khu Đ gắn liền với lịch sử thành lập và hoạt động của những đơn vị vũ trang mạnh, những tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn và hàng loạt trận đánh, chiến dịch, mà kết quả của nó đã góp phần tạo nên những bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của cuộc chiến tranh. Từ đây, đã ra đời những đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của miền Đông và của Xứ ủy, rồi tập trung thành Tiểu đoàn 800, Tiểu đoàn 500, Trung đoàn Đồng Nai. Đây cũng là nơi thành lập và đứng chân tác chiến của lực lượng quân chủ lực Miền như Trung đoàn 762, Sư đoàn 9, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, và trong cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 là nơi tập kết của lực lượng Quân đoàn 1, Quân đoàn 4 trước khi tiến về giải phóng Sài Gòn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chiến khu Đ tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của toàn dân, là nguồn hy vọng, là niềm tin của toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn miền Đông Nam bộ. Truyền thống anh hùng của lực lượng vũ trang QGPMNVN đã góp phần làm nên một Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất. Đây không chỉ là một đánh giá về mặt vị trí chiến lược của căn cứ đối với kẻ thù, mà còn mang ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại, phát triển của các lực lượng vũ trang cách mạng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Đại tá Nguyễn Viết Tá, nguyên Tổng biên tập Báo Quân giải phóng, nguyên Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, thư ký của thượng tướng Trần Văn Trà: Dấu ấn thượng tướng Trần Văn Trà
Thượng tướng Trần Văn Trà là người chỉ huy tài ba, mưu lược, để lại dấu ấn sâu đậm với tên gọi thân thương “Vị tướng của Thành đồng Tổ quốc”. Trên cương vị Tư lệnh QGPMNVN, thượng tướng Trần Văn Trà đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét “là một cán bộ quân sự quan tâm lãnh đạo toàn diện các mặt công tác quân sự, chính trị, hậu cần, kinh tế, ngọai giao. Dù ở cương vị nào đồng chí cũng hòa mình với quần chúng, gương mẫu, thương yêu, đoàn kết, tôn trọng cán bộ, chiến sĩ, được đồng đội và nhân dân quý mến.
Nhà văn Trầm Hương, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, chuyên viên cao cấp Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ: Vẻ vang nữ tướng Nguyễn Thị Định
Từ chỉ huy Đội quân tóc dài trong phong trào Đồng Khởi, bà Nguyễn Thị Định đã trở thành Phó tư lệnh QGPMNVN, là nữ tướng duy nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong nhân dân và đồng đội, là tấm gương sáng của phụ nữ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Chưa có người phụ nữ nào được vinh dự nhận lấy sự tín nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân như bà Nguyễn Thị Định. Năm 1965. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Phó tổng tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
An Yên (ghi)
Bạn đang xem bài viết Ngày Lễ Giải Phóng Miền Nam Tiếng Anh Là Gì, Miền Nam Việt Nam trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!