Cập nhật thông tin chi tiết về Những Bài Thơ Đoạt Giải Cao Tại Giải Thơ Lê Thánh Tông Lần Thứ 27 mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
LTS. Ngày 17-3-2015, Uỷ ban MTTQ tỉnh đã có quyết định trao giải thơ Lê Thánh Tông lần thứ 27 cho 19 bài thơ của 19 tác giả; trong đó có 1 giải A, 3 giải B, 7 giải C, 7 giải khuyến khích và 1 tặng thưởng tác giả cao tuổi nhất. Báo QNCT xin giới thiệu một số bài thơ được giải cao trong số 19 bài thơ trên.
Đời lúa (Giải A)
Không màng ngôi ngự trị các loài hoa Không ghen sắc, không tranh đua hương vị Nhỏ nhoi thôi, trong màu quê dung dị Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người!
Mở lòng ra thơm đất thơm trời Dệt áo xanh làm nền cho gió Ngọn đòng lên đợi mùa trăng tỏ Tận cùng thơm của vị ngọt ngào…
Không giành tên một loại hoa nào Đêm sương giăng nằm mơ cùng cỏ dại Dầm chân vào những gian lao đồng bãi Muôn hạt trắng ngần từ thánh thót mồ hôi!
Thân hao gầy cho ruộng mật bờ xôi Tháng tám ngày ba bắc cầu bờ giậu Tự mình san đều đôi vỏ trấu Gánh đời người đi qua bão giông!
Dương Phượng Toại (CLB thơ Bạch Đằng Giang, TX Quảng Yên)
Anh có về Ba Chẽ với em không? (Giải B)
“Anh có về Ba Chẽ với em không?” Nghe câu hát xốn xang đình làng Dạ Dáng ai qua chợt như quen như lạ Trời tháng tư xanh nỗi nhớ mênh mông.
Anh có về Ba Chẽ với em không? Con phố nhỏ bên dòng sông lặng lẽ Tóc em gội thơm hương mùa hoa dẻ Chiếc cầu treo soi bóng nước êm đềm
Ta chia xa ngày ấy đã bao năm Bóng thời gian qua bao nước nổi Sông Ba Chẽ uốn mình quanh phố núi Chảy về đâu ơi con nước xuôi dòng?
Bến Đầm Buôn – Cầu mới vắt ngang sông Em gánh nước tóc vương làn sương sớm Nhớ tiếng “Đò ơi!…” vẳng xa vời vợi Mái chèo khua thao thiết cả đôi bờ.
Ơi con sông! – Nước lớn mỗi mùa mưa Những mảng bè xanh tre rừng Đông Bắc Câu hát Then dìu dặt Ru cả bốn mùa – nương sắn nương ngô…
Phố núi bây giờ – điện lưới giăng tơ Hối hả ngược xuôi – ô tô, xe máy Cô gái Thanh Y, tay cầm điện thoại Khúc khích cười: Tin ai nhắn bằng thơ?
Anh có về Ba Chẽ tháng Tư Nghe gió hát, khúc giao mùa rộn rã Có cô giáo miền xuôi còn rất trẻ Dậy các em thơ bằng cả tấm lòng.
Anh có về Ba Chẽ với em không?
Minh Đức (CLB thơ Tiên Yên, huyện Tiên Yên)
Mẹ ơi, quê mình giờ đã khác (Giải B)
Thương mẹ vội vàng “đi” sớm Chiều đông hiu hắt màu mây Chúng con một đàn nhỏ dại Co ro áo mỏng, thân gầy.
Đưa mẹ về nơi cuối đất Gập ghềnh nghiêng bánh xe tang Những khuôn mặt người héo hắt Sắt se hằn vết cơ hàn.
Ruộng sâu tay mẹ cày cấy Đất cằn chai thối móng tay Mẹ mơ phép thần kỳ diệu Cho đời con được đổi thay…
Mẹ ơi! Quê mình đã khác Không phải phép màu thần tiên! Ruộng đồng quanh năm xanh tốt Hết ngô, lúa trải xanh liền.
Đồi hoang đã thành nhà máy Khói trắng hoà vào trời mây Thênh thang đường quê rộng mở Hàng đi xuôi ngược đêm ngày.
Các cháu của bà đã lớn Đứa là doanh nhân, công nhân Đứa là kĩ sư, cô giáo… Con vui, thương mẹ ngàn lần!
Mỗi ngày quê hương đổi khác Mùa Thu rực đỏ bóng cờ Cuộc đời đã sang trang mới Ước chi mẹ sống đến giờ!
Nguyễn Thu Mát (CLB thơ 8/6 huyện Đông Triều)
Phân Tích Khổ Thơ Thứ Hai Bài Tràng Giang
Tài liệu hướng dẫn phân tích khổ thơ 2 bài Tràng giang – Huy Cận gồm tổng hợp nội dung kiến thức bổ trợ để giúp các em học sinh chuẩn bị tài liệu và viết bài được tốt hơn, đạt điểm cao: dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tràng giang vànhững văn bài phân tích khổ đầu bài thơ Tràng giang hay.
Hướng dẫn phân tích khổ 2 bài Tràng giang
Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang – Huy Cận.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đây tiếng làng xa vãn chợ chiều, Nắng xuống, trời lên sâu chót vót: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
1. Phân tích đề
– Yêu cầu: phân tích nội dung khổ thơ thứ hai bài Tràng giang.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong khổ thơ thứ hai của bài Tràng giang (Huy Cận).
– Phương pháp lập luận chính: phân tích.
2. Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều
– Luận điểm 2: Tâm trạng của thi nhân.
3. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả và tác phẩm:
+ Huy Cận (1919 – 2005) là nhà thơ tiêu biểu với tiếng thơ yêu đời, lạc quan và tràn đầy sức sống, một thi sĩ hàng đầu trong phong trào Thơ mới.
+ Tràng giang là sáng tác tiêu biểu nhất của Huy Cận giai đoạn trước năm 1945, được in trong tập Lửa thiêng, là tiếng lòng của một chàng thi sĩ đa sầu đa cảm.
– Dẫn dắt vào vấn đề: Khổ hai bài thơ đã tái hiện lên một khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều, tô đậm thêm nỗi cô đơn của con người.
b) Thân bài * Khái quát chung
– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều thu vào năm 1939, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm bên sông Hồng ngắm cảnh không gian mênh mang và nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định.
– Giá trị nội dung: Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.
– Ý nghĩa nhan đề:
+ ” Tràng giang ” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
+ Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
– Câu thơ đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.
* Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng giang
Luận điểm 1: Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều
– Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
+ Góc nhìn của nhân vật trữ tình lúc này bao quát hơn, rộng hơn khi từ cảnh sông Hồng chuyển sang không gian bao la của trời đất, bến bờ. Đó là một không gian vắng lặng, yên tĩnh: có cảnh vật (cồn, gió, làng, chợ…) nhưng cảnh vật lại quá ít ỏi, nhỏ nhoi ( nhỏ, xa, vãn…)
+ Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng tràng giang. Trên những cồn đất nhỏ đó, mọc lên những cây lau, sậy, khi gió thổi qua thì âm thanh phát ra nghe man mác, nghe “đìu hiu” não ruột.
+ Có âm thanh nhưng âm thanh ấy lại phát ra từ ngôi “chợ chiều” đã “vãn” mà làng lại xa nên không đủ sức làm cho cảnh vật sinh động, có hồn.
+ Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái gợi lên âm thanh xa xôi, không rõ rệt: ” Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
“Đâu tiếng làng xa” có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người.
Cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, vì chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
Luận điểm 2: Tâm trạng của thi nhân.
– Hai câu thơ tiếp theo, không gian được mở ra bát ngát:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
+ Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”.
+ Nhà thơ nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót”:
Cách dùng từ thật độc đáo vì nhà thơ không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”.
“Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, còn “sâu” không chỉ diễn tả được độ cao vật lí mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy.
+ Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại:
+ Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”.
+ Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là cách dùng từ mới lạ “sâu chót vót”.
– Sử dụng từ ngữ chọn lọc đắt giá, giàu giá trị gợi hình biểu cảm.
– Ngắt nhịp thơ hiệu quả.
c) Kết bài
– Khái quát giá trị nội dung khổ thơ thứ 2 bài Vội vàng
– Nêu cảm nhận của em.
Với dàn ý phân tích khổ thứ hai bài Tràng giang chi tiết được Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn ở trên, kết hợp cùng với kiến thức phần soạn bài Tràng giang, các em có thể tự viết được bài văn phân tích khổ 2 bài Tràng giang hay dựa trên những bài phân tích tổng quan cả tác phẩm như:
4. Sơ đồ tư duy phân tích khổ 2 bài Tràng giang
Phân tích khổ 2 bài Tràng giang – Bài 1
Nếu cả bài thơ tràng giang là một bức tranh sông nước rợn ngợp những nỗi buồn, nỗi sầu thương thì khổ thứ hai trong bài đã gợi lên một khung cảnh hoang vắng đến xác xơ, tiều tụy.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Cảm nhận chung về những dòng thơ này là một khung cảnh hoang vắng. Làng xóm ven sông vắng lặng, cảnh sông nước thật mênh mang trong một không gian nhiều chiều. Câu thơ đã gợi ra cảnh tượng: một vài cồn cát chạy nổi giữa dòng sông với sự đơn độc, lẻ loi. Trên những cồn cát đó chỉ thấy lơ thơ vài cây mọc hoang. Đây là dòng sông mùa nước, nước sông cứ dềnh mãi lên. Cảnh tượng thực này lại mang rất nhiều tính biểu tượng trong nó. Nếu trước đó ta thấy con thuyền bị vây bủa bởi những lớp sóng như những nỗi buồn điệp điệp thì ở đây ta lại gặp con người như những cồn cát nhỏ bé, chơi vơi đang bị dòng lũ cuộc đời nhấn chìm dần. Hình tượng thơ đó còn gợi lên cảm giác suy ngẫm về những cuộc đời trong xã hội cũ.
Tất cả đều được sắp đặt, an bài, đều bị phủ lấp. Hình ảnh những cồn cát lơ thơ giữa dòng nước gợi một cái gì thật buồn bã trước sự trùm phủ. Nó chẳng khác nào cành củi khô, nhỏ bé lập lờ giữa dòng nước mênh manh. Trong khung cảnh đó, thoáng những cơn gió đìu hiu. Cái cảm giác đìu hiu như lan tỏa, khung cảnh câu thơ như gợi ra sự quạnh quẽ, hoang tàn. Đây là sự kế thừa và sáng tạo bút pháp của Chinh phụ ngâm. Chính Huy Cận đã cho biết:ông viết dòng thơ này với sự ảnh hưởng từ thơ Chinh phụ ngâm:
“Non Kì quạnh quẽ trăng treo Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Câu thơ” Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều ” có nhiều cách hiểu khác nhau. Đâu đó, đâu đây hình như đang vẳng lại những tiếng lao xao của cảnh chợ chiều. Những tiếng chợ chiều vẳng lại trong gió đã gợi được cái tĩnh lặng của khung cảnh. Phải yên tĩnh lắm mới có thể nghe được những âm thanh đó. Nhưng những tiếng lao xao của cảnh chợ chiều lại chỉ gợi ra những gì là tàn tạ, thê lương. Bởi còn gì buồn hơn cảnh chợ chiều, chợ tàn.
Cảnh ở đây vắng lặng đến tuyệt đối. Cảnh không những không có sự hoạt động của con người mà ngay đến âm thanh của hoạt động đó cũng không có. Dẫu sao thì cảnh ở đây vẫn thiếu một cái gì đó có thể lôi cuốn, vỗ về con người. Dù là có hay không có những âm thanh của tiếng chợ chiều, ta vẫn không thấy được bất kì mối liên hệ nào giữa những cồn cát lơ thơ và tiếng chợ chiều. Thế nhưng tất cả vẫn gắn với nhau trong một biểu hiện chung, gợi lên những cảm giác cô đơn, buồn bã và hiu hắt.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Đến hai câu thơ này, ta lại thấy gợi lên một nỗi buồn mênh mang khắp sông dài trời rộng. Tạo vật ở đây có nhiều nét độc đáo. Độc đáo trước hết ở chỗ tạo dựng không gian: những chữ “xuống, lên, dài, rộng, sâu” đã gợi được một không gian nhiều chiều, có cài gì thăm thẳm hun hút, lại có cái dài rộng, mênh mang. Chút nắng chiều sót lại, rơi xuống tạo cảm giác bầu trời như cao thêm lên. Những tia nắng của ngày tàn đó đang rơi vào thăm thẳm để đẩy bầu trời lên cao chót vót, xa vời. Nhưng cái nhìn của Huy Cận hướng về bầu trời lại thấy cảm giác sâu chót vót như ông bị hút vào cái thăm thẳm của bầu trời trong một cảm giác rợn ngợp không cùng.
Hai câu thơ này còn tạo nên sự đối nghĩa rất đặc sắc. Nếu câu thứ ba gợi cảm nhận về bầu trời cao thì câu thứ tư lại gợi về hình ảnh dòng sông dài, rộng mênh mang. Câu “nắng xuống trời lên sâu chót vót” gợi sự hiu hắt còn câu “sông dài trời rộng bến cô liêu” lại gợi một nỗi sầu dằng dặc. Mặt khác hai dòng thơ này còn tạo sự kết hợp mang cảm giác vũ trụ – cảm giác thường thấy ở thơ Huy Cận. Giữa hai dòng thơ ta còn thấy một sự đăng đối: “sâu chót vót – bến cô liêu”. Sự đăng đối này tạo ra quan hệ ý nghĩa: mối sầu chất ngất bắt đầu từ cái thăm thẳm của bến cô liêu. Huy Cận đã dùng cái thực tế để biểu hiện cái hư ảo khó thấy và lại dùng cái hư ảo để lột tả tinh thần của cái thực tế đến tàn nhẫn.
Cũng với những dòng thơ này ta còn thấy nỗi buồn của Huy Cận đã vượt khỏi lòng mình để nhuộm sầu cả vũ trụ. Nhân vật trữ tình trong Tràng giang có nỗi buồn mênh mang, trải khắp và thấm đượm cả một không gian bát ngát, bao la. Sông dài, trời rộng, vũ trụ mênh mang và nỗi buồn của con người cũng là vô tận. Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang thấy rõ rằng: Nếu trước đó ta thấy sự tương phản giữa cành củi và dòng sông thì ở đây ta lại gặp sự đối lập giữa bến cô liêu và sông dài trời rộng. Đây vẫn là cái nhìn tương quan trong cảm giác về con người giữa vũ trụ vô cùng.
Khổ thơ thứ hai khép lại trong cái cô liêu chơi vơi của cả lòng người và tạo vật. Huy Cận thực tài tình khi đã dựng tả cả một bức tranh trời nước mênh mang mà đầy tâm tư sâu lắng.
Phân tích khổ 2 bài Tràng giang – Bài 2
“Tràng giang” là bài thơ kiệt tác của Huy Cận rút trong tập thơ ” Lửa thiêng” (1940). Bài thơ có một câu đề từ rất đậm đà: “Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài”. Tác giả đã có lần nói: ” Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn”, ” Tràng giang ” tiêu biểu cho vẻ đẹp của hồn thơ Huy Cận trước cách mạng: hàm súc, cổ điển, giàu chất suy tưởng triết lí, thấm thía một nỗi buồn nhân thế “sầu trăm ngả”.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, có 4 khổ thơ hợp thành một bộ tứ bình về tràng giang một chiều thu. Đây là khổ thơ thứ hai của ” Tràng giang “:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đây tiếng làng xa vãn chợ chiều, Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sông, ở khổ một, Huy Cận nói đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Giọng thơ nhè nhẹ man mác buồn. Không gian nghệ thuật được mở rộng về đôi bờ và bầu trời. Những cồn cát thưa thớt nhấp nhô “lơ thơ” như nối tiếp mãi dài ra. Gió chiều nhè nhẹ thổi “đìu hiu” gợi buồn khôn xiết kể. Hai chữ “đìu hiu” gợi nhớ trong lòng người đọc một vần thơ cổ:
“Non Kì quạnh quẽ trăng treo, Bến Phi gió thổi đìu hiu mấy gò”.
(Chinh phụ ngâm)
Làng xóm đôi bờ sông, trong buổi chiều tàn cũng rất vắng lặng. Một chút âm thanh nhỏ bé lao xao trong khoảnh khắc tan chợ, vãn chợ ở đâu đây, ở từ một làng xa vẳng đến. Lấy động để tả tĩnh, câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” đã làm nổi bật sự ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang. Các nhà Thơ mới coi trọng tính nhạc trong thơ, vận dụng nghệ thuật phối âm, hòa thanh rất thần tình, tạo nên những vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu, đọc lên nghe rất thích. Hai câu thơ đầu đoạn có điệp âm “lơ thơ” và “đìu hiu”, có vần lưng “nhỏ – gió”, có vần chân: “hiu – chiều”. Câu thơ của Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu, Lả lả cành hoang nắng trở chiều…”
Các điệp thanh: “Nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả”; các vần thơ, như vần lưng “nhỏ” với “gió”, vần chân “xiêu” với “chiều”. Những vần thơ “tươi nhạc tươi vần” ấy đã trở thành thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người yêu thích văn học.
Trở lại đoạn thơ trong bài “Tràng giang” của Huy Cận, ta như được nhập hồn mình vào cõi vũ trụ mênh mông và bao la. Trời đã về chiều. Nắng từ trên cao chiếu rọi xuống làm hiện ra những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời, vẻ đẹp của bầu trời thu quê hương ta đã trở thành vẻ đẹp của thi ca dân tộc: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh); và “Trời cao xanh ngắt – ô kìa…” (Tiếng sáo Thiên Thai); “xanh biếc trời cao, bạc đất bằng” (Xuân Diệu). Thi sĩ Huy Cận lại nhận diện bầu trời không phải là cao mà là sâu, “sâu chót vót”:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Bầu trời và lòng sông “sóng gợn” là không gian hai chiều, rộng và cao, sâu. Trời cao thăm thẳm, rộng mênh mông in xuống, soi xuống lòng sông. Người ta thường nói “cao chót vót” và “sâu thăm thẳm”, nhưng Huy Cận lại cảm nhận là “sâu chót vót” vừa để làm nổi bật hai vế tiểu đối: “nắng xuống” và “trời lên”, vừa gây ấn tượng về cái bao la, mênh mông đến rợn ngợp của không gian vũ trụ vô tận, và cũng là nỗi buồn như vô tận trong lòng người. Khách li hương càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi và cô đơn trước không gian vô hạn của vũ trụ.
Dòng sông như dài thêm ra, bầu trời như rộng thêm ra, bến đò (hay bến lòng?) như cô liêu hơn. xa vắng quạnh hiu hơn. Lời đề từ nhà thơ đã viết: “Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài”, cảm hứng ấy đã được láy lại ở thơ số 8, mở ra một trường liên tưởng đầy ám ảnh về vũ trụ thì vô hạn vô cùng, còn kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn:
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang mới thấy rõ cảnh sắc tràng giang là một không gian nghệ thuật đẹp mà buồn, vẻ đẹp của những dòng sông trên mọi miền đất nước hội tụ trong tâm hồn thi nhân, vẻ đẹp của tình yêu quê hương, tình yêu sông núi. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước của Huy Cận, của thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến. “Tràng giang” đã hợp lưu trong lòng người hơn 60 năm rồi. Đọc đoạn thơ trên, ta mới thấu hiểu nỗi lòng thi nhân trước Cách mạng: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm…”.
-/-
Với những phần nội dung gợi ý cho đề bài Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang – Huy Cận được Đọc tài liệu tổng hợp phía trên, hi vọng các em học sinh sẽ có được những bài văn hay và ý nghĩa về tác phẩm đầy ấn tượng của Huy Cận.
Soạn Bài Trong Lòng Mẹ (Trích Những Ngày Thơ Ấu)
1. Phân tích nhân vật người cô trong cuộc đối thoại giữa bà ta với chú bé Hồng.
(Gợi ý : Chú ý vẻ mặt “tươi cười”, giọng nói “ngọt ngào”, cử chỉ thân mật của người cô đối với chú bé Hồng mà tác giả gọi là “rất kịch”. Bà ta muốn gì khi nói rằng mẹ chú đang “phát tài” và nhất là cố ý phát âm hai tiếng “em bé” ngân dài thật ngọt ? Vì sao những lời lẽ của bà ta đã khiến lòng chú bé “thắt lại”, “nước mắt ròng ròng” …? Qua cuộc hội thoại, em thấy nhân vật bà cô là người như thế nào ?)
2. Tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh được thể hiện như thế nào ?
(Gợi ý : Cần chú ý phân tích :
– Phản ứng tâm lí của chú bé khi nghe những lời giả dối, thâm độc xúc phạm sâu sắc tới mẹ chú.
– Cảm giác sung sướng cực điểm của chú khi gặp lại và nằm trong lòng người mẹ mà chú mong chờ mỏi mắt.)
3. Qua đoạn trích Trong lòng mẹ, hãy chứng minh rằng văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình.
4. Qua đoạn trích, em hiểu thế nào là hồi kí ?
5. Có nhà nghiên cứu nhận định Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng. Nên hiểu như thế nào về nhận định đó ? Qua đoạn trích Trong lòng mẹ, em hãy chứng minh nhận định trên.
A. Bố cục
– Phần 1 : Từ đầu … người ta hỏi đến chứ? : cuộc đối thoại người cô với bé Hồng.
– Phần 2 : Còn lại : cuộc gặp gỡ giữa hai mẹ con.
B. Tóm tắt
Vì hoàn cảnh bố chết, mẹ đi làm ăn xa, bé Hồng phải sống trong cảnh thiếu thốn tình cảm. Người cô nói chuyện với bé Hồng. Bà tìm mọi cách để chia lìa tình mẹ con. Nhưng bé vẫn luôn luôn thương nhớ, kính yêu mẹ. Rồi bé được gặp lại mẹ mình với những cảm giác sung sướng khi thoáng thấy bóng mẹ, đặc biệt là niềm hạnh phúc vô bờ khi được mẹ ôm vào lòng và được hưởng những cảm giác ấm áp, hạnh phúc.
Đọc – Hiểu văn bản
Câu 1 trang 20 – SGK Ngữ Văn 8 tập 1 : Phân tích nhân vật người cô trong cuộc đối thoại giữa bà ta với chú bé Hồng.
(Gợi ý : Chú ý vẻ mặt “tươi cười”, giọng nói “ngọt ngào”, cử chỉ thân mật của người cô đối với chú bé Hồng mà tác giả gọi là “rất kịch”. Bà ta muốn gì khi nói rằng mẹ chú đang “phát tài” và nhất là cố ý phát âm hai tiếng “em bé” ngân dài thật ngọt ? Vì sao những lời lẽ của bà ta đã khiến lòng chú bé “thắt lại”, “nước mắt ròng ròng” …? Qua cuộc hội thoại, em thấy nhân vật bà cô là người như thế nào ?)
Trả lời :
Thứ 1: “Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bên cười hỏi :
– Hồng ! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không ?”
Điều đáng chú ý ở đây là bà cô cười hỏi chứ không phải lo lắng hỏi, nghiêm nghị hỏi, lại càng không phải âu yếm hỏi. Lẽ thường, câu hỏi đó sẽ được trả lời rằng có, nhất là đối với chú bé vốn dĩ thiếu thốn một tình thương ủ ấp. Nhưng vốn nhạy cảm, nặng tình thương yêu và lòng kính mến mẹ, chú bé Hồng lập tức “nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của cô tôi kia”. Vì thế, chú cúi đầu không đáp.
Thứ 2 : Không thể để tình thương yêu và lòng kính mến mẹ lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến, chú bé Hồng đã ứng đối rất thông minh, đầy tự tin : “Không ! Cháu không muốn vào, cuối năm thế nào mợ cháu cũng về”. Cuộc đối thoại tưởng chừng sẽ chấm dứt sau câu trả lời có vẻ “bất cần” mà thực ra đầy suy nghĩ ấy.
Nhưng không ! Bà cô nào đã chịu buôn tha !
Bà ta hỏi luôn, giọng vẫn ngọt : “Sao lại không vào ? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu !”. Cùng với giọng “ngọt”, bình thản mà mỉa mai ấy là hai con mắt long lanh chằm chặp đưa nhìn chú bé. Điều này chứng tỏ bà cô cứ muốn kéo đứa cháu đáng thương vào một trò chơi ác độc đã dàn tính sẵn. Rồi chú bé đã im lặng cúi đầu, khóe mắt đã cay cay, bà cô vẫn tiếp tục “tấn công”. Cái cử chỉ “liền vỗ vai tôi cười mà nói rằng” lúc ấy mới giả dối, mới độc ác làm sao ! “Mày dại quá, cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ”. Đến câu này người nói không chỉ lộ rõ sự ác ý mà còn chuyển sang chiều hướng châm chọc, nhục mạ. Quả không gì cay đắng bằng khi vết thương lòng bị người khác lại chính là cô mình – cứ xăm soi hành hạ. “Hai tiếng “em bé” mà cô tôi ngân dài ra thật ngọt, thật rõ, quả nhiên đã xoắn chặt lấy tâm can tôi như ý cô tôi muốn”. Giọng điệu bà cô lúc này quả là cay nghiệt, già dặn trước chú bé đáng thương và bị động.
Thứ 3 : Cho đến khi chú bé phẫn uất, nức nở, nước mắt ròng ròng rớt xuống rồi “cười dài trong tiếng khóc” … bà cô vẫn chưa chịu buông tha. Đối lập lại trạng thái tâm hồn đau đớn, xót xa như bị cào gai, xát muối của đứa cháu là sự vô cảm sắc lạnh đến ghê rợn của người cô. Cần chú ý câu tả : “Cô tôi vẫn cứ tươi cười kể các câu chuyện cho tôi nghe”. Tình cảnh túng quẫn, hình ảnh gầy guộc, rách rưới của người mẹ chú bé được bà cô miêu tả một cách tỉ mỉ với vẻ thích thú rõ rệt.
Cử chỉ vỗ vai, nhìn vào mặt đứa cháu rồi đổi giọng làm ra nghiêm nghị của bà cô sau đó thực ra là sự thay đổi đấu pháp tấn công. Dương như đã đánh đến miếng đòn cuối cùng – khi thấy đứa cháu tức tưởi, phẫn uất đến đỉnh điểm – bà ta mới hạ giọng tỏ sự ngậm ngùi thương xót người đã mất. Đến đây, sự giả dối thâm hiểm mà trơ trẽn của bà cô đã phơi bày toàn bộ.
Từ phân tích các bước trên, rút ra bản chất của nhân vật bà cô : lạnh lùng, độc ác, thâm hiểm. Đó là một hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo hạng người sống tàn nhẫn, khô héo cả tình máu mủ ruột rà trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ.
Câu 2 trang 20 – SGK Ngữ Văn 8 tập 1 : Tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh được thể hiện như thế nào ?
(Gợi ý : Cần chú ý phân tích :
– Phản ứng tâm lí của chú bé khi nghe những lời giả dối, thâm độc xúc phạm sâu sắc tới mẹ chú.
– Cảm giác sung sướng cực điểm của chú khi gặp lại và nằm trong lòng người mẹ mà chú mong chờ mỏi mắt.)
Trả lời :
Càng nhận ra lòng thâm độc của bà cô, chú bé Hồng càng đau đớn uất hận, càng trào lên cảm xúc yêu thương mãnh liệt đối với người mẹ tội nghiệp của mình. Diễn biến tâm trạng nhân vật chú bé Hồng theo trình tự thời gian, trong mối quan hệ với các lời nói, cử chỉ của nhân vật bà cô :
– Những ý nghĩ, cảm xúc của chú bé khi trả lời bà cô :
+ Mới đầu, nghe bà cô hỏi, lập tức trong kí ức chú bé sống dậy hình ảnh vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ. Từ “cúi đầu không đáp” đến “cũng đã cười và đáp lại cô tôi” là một phản ứng thông minh xuất phát từ sự nhạy cảm và lòng tin yêu mẹ của chú bé. Bởi chú nhận ra ngay những ý nghĩa cay độc tron giọng nói và trên nét mặt của bà cô nhưng lại không muốn tình thương yêu và lòng kính mến mẹ bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến.
+ Sau lời hỏi thứ hai của bà cô, lòng chú bé càng thắt lại, khóe mắt đã cay cay. Đến khi mục đích mỉa mai, nhục mạ của bà cô đã trắng trợn phơi bày ở lời nói thứ ba thì lòng đau đớn, phẫn uất của chú bé không còn nén nổi : “Nước mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ”. Cái “cười dài trong tiếng khóc” để hỏi lại sau đó thể hiện sự kìm nén nỗi đau xót, tức tưởi đang dâng lên trong lòng.
+ Tâm trạng đau đớn, uất ức của chú bé đang đến cực điểm khi nghe bà cô cứ tươi cười kể về tình cảnh tội nghiệp của mẹ mình. Nguyên Hồng đã bộc lộ lòng căm tức tột cùng ở những giây phút này bằng các chi tiết đầy ấn tượng. Lời văn lúc này dồn dập với các hình ảnh, các động từ mạnh mẽ : “Cô tôi chưa dứt câu, cổ họng tôi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kì nát vụn mới thôi”.
– Cảm giác sung sướng cực điểm khi được ở trong lòng mẹ.
+ Chú ý hành động chạy đuổi theo chiếc xe của chú bé Hồng với các cử chỉ vội vã, bối rối, lập cập. Vừa được ngồi lên xe của mẹ, chú bé “òa lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Giọt nước mắt lần này khác hẳn với lần trước (khi trả lời bà cô) : dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện.
+ Cảm giác sung sướng đến cực điểm của đứa con khi được ở trong lòng mẹ được Nguyên Hồng diễn tả bằng cảm hứng đặc biệt say mê cùng những rung động vô cùng tinh tế. Cần chú ý phân tích thật kĩ đoạn văn này. Nó vẽ nên một không gian của ánh sáng, của mà sắc, của hương thơm vừa lạ lùng vừa gần gũi. Nó là hình ảnh về một thế giới đang bừng nở, hồi sinh, một thế giới dịu dàng kỉ niệm và ấm áp tình mẫu tử…
Chú bé Hồng bồng bềnh trôi trong cảm giác vui sướng, rạo rực, không mảy may nghĩ ngợi gì. Những lời cay độc của bà cô, những tủi cực vừa qua bị chìm đi giữa dòng cảm xúc miên man ấy.
Đoạn trích Trong lòng mẹ, đặc biệt phần cuối này, là bài ca chân thành và cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diện.
Câu 3 trang 20 – SGK Ngữ Văn 8 tập 1 : Qua đoạn trích Trong lòng mẹ, hãy chứng minh rằng văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình.
Ở chương Trong lòng mẹ, có thể thấy chất trữ tình thấm đượm ở nội dung câu chuyện được kể, ở những cảm xúc căm giận, xót xa và yêu thương đều lên đến cao độ, thống thiết và ở cách thể hiện (giọng điệu, lời văn…) của tác giả.
Chất trữ tình trong chương Trong lòng mẹ thể hiện qua mấy phương diện cụ thể sau :
Câu 4 trang 20 – SGK Ngữ Văn 8 tập 1 : Qua đoạn trích, em hiểu thế nào là hồi kí ?
Hồi kí là một thể loại kí kể lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà người kể là người tham dự hoặc chứng kiến, tác giả là người xưng tôi.
Câu 5 trang 20 – SGK Ngữ Văn 8 tập 1 : Có nhà nghiên cứu nhận định Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng. Nên hiểu như thế nào về nhận định đó ? Qua đoạn trích Trong lòng mẹ, em hãy chứng minh nhận định trên.
Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng vì :
– Có cái nhìn thông cảm, thấu hiểu với những khổ đau người phụ nữ giữa những hủ tục khắt khe, người con trẻ với khát vọng tình thương, nỗi đau tinh thần.
– Nhà văn am hiểu sâu sắc về phụ nữ và trẻ nhỏ, có sự nắm bắt cá tính và tâm lí nhân vật qua lời văn giàu cảm xúc, ngọt ngào.
Qua đoạn trích Trong lòng mẹ :
– Nhân vật bà cô đại diện những hủ tục phong kiến còn tồn tại.
– Nhân vật mẹ Hồng: hiện sinh hình ảnh người phụ nữ tảo tần, chịu nhiều vất vả, điều tiếng tủi nhục.
– Nhân vật bé Hồng: sống trong cảnh thiếu thốn tình cảm, mất mát trong gia đình.
Giải Vbt Ngữ Văn 9 Luyện Nói: Nghị Luận Về Một Đoạn Thơ, Bài Thơ
Câu 1: Bài tập 2, tr. 112, SGK
Trả lời:
– Mở đầu: giới thiệu bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt và hình ảnh sáng tạo tiêu biểu đặc sắc nhất của bài thơ: hình ảnh bếp lửa
– Nội dung chính
+ Bài thơ Bếp lửa ra đời vào thời kì cả nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp. Miền Bắc đang tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục chiến đấu chống lại sự xâm lược của đế quốc Mĩ.
+ Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ gắn liền với thời kì kháng chiến chống Pháp gian khổ của nhân dân ta
+ Đối với cá nhân tác giả, bài thơ Bếp lửa gợi nhớ lại những kỉ niệm về bà và những năm tháng xa bố mẹ được bà yêu thương, chăm sóc ân cần.
+ Hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà tần tảo, gợi lên lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà.
+ Bài thơ không chỉ bó hẹp trong tình cảm gia đình mà còn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước
+ Tình cảm kính yêu, biết ơn đối với người bà gắn liền với tình cảm yêu mến, tự hào về quê hương, đất nước là động lực cho người cháu chiến đấu hôm nay
– Kết thúc: khẳng định lại vấn đề nghị luận
Câu 2: Ngoài cách mở đầu nêu ở bài tập 1, hãy nêu lên hai lời mở đầu khác cho bài luyện nói ở trên
Trả lời:
– Mở đầu 1: Thưa các bạn! Chúng ta đã được học, được đọc nhiều áng thơ văn hay về tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình. Có bạn thích vẻ thiết tha nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có bạn yêu sự mộng mơ lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và sóng của Ta-go,… Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt
– Mở đầu 2: Đối với những người đi xa nhớ nhà , có lẽ không có hình ảnh nào gợi cảm hơn hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa ấm áp, bếp lửa no đủ, bếp lửa quây quần. Bằng Việt đã chọn một hình ảnh thật tiêu biểu để viết tình cảm của mình đối với người bà kính yêu: Bếp lửa
Các bài giải vở bài tập Ngữ Văn lớp 9 (VBT Ngữ Văn 9) khác:
Bạn đang xem bài viết Những Bài Thơ Đoạt Giải Cao Tại Giải Thơ Lê Thánh Tông Lần Thứ 27 trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!