Xem Nhiều 3/2023 #️ Phát Biểu Của Thủ Tướng Tại Lễ Kỷ Niệm 75 Năm Ngày Truyền Thống Và Đại Hội Thi Đua Yêu Nước Vpcp Giai Đoạn 2022 # Top 3 Trend | Caffebenevietnam.com

Xem Nhiều 3/2023 # Phát Biểu Của Thủ Tướng Tại Lễ Kỷ Niệm 75 Năm Ngày Truyền Thống Và Đại Hội Thi Đua Yêu Nước Vpcp Giai Đoạn 2022 # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Biểu Của Thủ Tướng Tại Lễ Kỷ Niệm 75 Năm Ngày Truyền Thống Và Đại Hội Thi Đua Yêu Nước Vpcp Giai Đoạn 2022 mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

(Chinhphu.vn) – Ngày 20/8, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống và Đại hội thi đua yêu nước VPCP giai đoạn 2020-2025. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Thủ tướng.

Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thưa các đồng chí lãnh đạo các Văn phòng Trung ương và bộ, ban, ngành, Thưa toàn thể các đồng chí, Lễ kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống và Đại hội thi đua yêu nước giai đoạn 2020-2025 của Văn phòng Chính phủ là hoạt động có ý nghĩa lớn khi được tổ chức đúng vào dịp cả nước ta hăng hái thi đua lập thành tích chào mừng 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Hội đồng Thi đua-Khen thưởng Trung ương, tôi xin gửi tới toàn thể các đồng chí cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Văn phòng Chính phủ qua các thời kỳ và gia đình những tình cảm thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Đồng thời, tôi cũng xin gửi những lời chúc mừng tốt đẹp đến các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong Văn phòng các cơ quan hành chính nhà nước trong cả nước nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống Văn phòng cơ quan hành chính nhà nước (ngày 28/8). Thưa các đồng chí, Lịch sử và truyền thống 75 năm của Văn phòng Chính phủ gắn liền với lịch sử hoạt động của Chính phủ ta qua các thời kỳ. Chúng ta vô cùng tự hào ngay từ khi thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, “Văn phòng Chủ tịch Chính phủ”- tiền thân của Văn phòng Chính phủ ngày nay- đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, đào tạo và rèn luyện. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tại chiến khu Việt Bắc “Thủ đô gió ngàn”, Văn phòng Chủ tịch Chính phủ (sau được đổi tên là Thủ tướng phủ) tiếp tục được hoàn thiện về tổ chức, là cơ quan trực tiếp giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Hội đồng Chính phủ, Hội đồng Quốc phòng tối cao chỉ đạo phối hợp hoạt động của các bộ và địa phương. Thực hiện nghiên cứu, tham mưu tổ chức cách thức làm việc của Chính phủ và các cơ quan Chính phủ thích nghi với điều kiện toàn quốc kháng chiến; tham mưu đắc lực vào sự  lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ đi đến thắng lợi cuối cùng với chiến thắng lich sử Điện Biên Phủ năm 1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Phủ Thủ tướng (sau đó là Văn phòng Phủ Thủ tướng) đã từng bước kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực hoạt động. Đã tích cực tham mưu, phục vụ cho Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hành nhiều biện pháp, chính sách phù hợp với thời chiến trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nội chính, quân chính… đảm bảo kịp thời, phù hợp tình hình thực tế đất nước. Qua đó, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc phục hồi kinh tế, ổn định xã hội, củng cố chính quyền và cải tạo xã hội chủ nghĩa, đánh bại chiến tranh phá hoại miền Bắc và chi viện sức người, sức của cho chiến trường, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Nhiều cán bộ, nhân viên ưu tú của Văn phòng Chính phủ đã lên đường nhập ngũ, trực tiếp chiến đấu và anh dũng hy sinh trên các chiến trường, vì hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Sau ngày thống nhất đất nước, bộ máy của Chính phủ và chính quyền các cấp được tổ chức lại; cơ quan Văn phòng Phủ Thủ tướng ngày càng được tăng cường năng lực, được đổi tên thành Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng. Văn phòng đã tham mưu, đề xuất ban hành nhiều chính sách huy động nhân dân trong cả nước tập trung khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, thực hiện nhiều chính sách kinh tế mới, đưa đất nước vượt qua khó khăn của thời kỳ khủng hoảng, lạm phát cao, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân; phá thế bao vây cấm vận; góp phần cùng quân và dân ta tích cực chiến đấu thắng quân xâm lược, góp phần bảo vệ toàn vẹn biên giới, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả.  Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, qua gần 35 năm qua, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng kinh tế bình quân đạt mức cao (khoảng trên 6,8%/năm), cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế ngày càng lớn mạnh. Tiềm lực quốc phòng an, ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia lãnh thổ được giữ vững, vị thế, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế ngày càng tăng. Từ một nước nghèo, kém phát triển, chúng ta đã nỗ lực vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; là đối tác thương mại với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; hàng hóa của ta được xuất khẩu đi toàn cầu. Việt Nam là quốc gia có thành tích nổi bật về xóa đói giảm nghèo, đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Trong thành tựu chung, mang ý nghĩa lịch sử đó, có sự đóng góp thiết thực, hiệu quả, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Văn phòng Chính phủ chúng ta qua các thời kỳ. Trong những năm qua, Văn phòng Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tham mưu, góp phần tích cực vào việc tăng cường hiệu quả hoạt động của Chính phủ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế-xã hội của đất  nước. Văn phòng Chính phủ đã thực hiện tốt hơn chức năng xây dựng và quản lý Chương trình, kế hoạch công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; có nhiều giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tham mưu tổng hợp. Chủ động tham mưu chỉ đạo cũng như đề xuất tổ chức thực hiện trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là trong xây dựng thể chế, chính sách; chỉ đạo điều hành các chương trình, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, các vấn đề quốc phòng, an ninh, nội chính, đối ngoại, hội nhập quốc tế; tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính và xây dựng Chính phủ điện tử… Văn phòng Chính phủ đã không ngừng đổi mới cách làm việc, xây dựng và thực hiện chặt chẽ Quy chế làm việc, góp phần thiết thực nâng cao chất lượng, hiệu quả chỉ đạo, điều hành và giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết kịp thời cả các công việc thường xuyên và các vấn đề quan trọng, cấp bách mà thực tiễn đặt ra. Các đồng chí đã làm tốt các công tác phục vụ họp, văn thư lưu trữ, biên tập các báo cáo, tài liệu để phục vụ lãnh đạo; bảo đảm thông tin, tuyên truyền; thực hiện chu đáo các nhiệm vụ về quản trị, hậu cần, kỹ thuật, lễ tân, bảo vệ và phục vụ, đáp ứng tốt mọi yêu cầu hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả làm việc tại trụ sở Chính phủ hay trong các chuyến công tác trong nước và nước ngoài. Đặc biệt, thời gian gần đây, trong công tác phòng chống dịch COVID-19, cán bộ, công chức Văn phòng Chính phủ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, kịp thời nắm tình hình, tham mưu, đề xuất cho Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và triển khai thực hiện quyết liệt các giải ngăn chặn, đẩy lùi  dịch bệnh ở các địa phương, góp phần cùng cả nước vừa phòng chống dịch hiệu quả, vừa phát triển kinh tế-xã hội, đưa Việt Nam trở thành điểm sáng trên thế giới về phòng, chống dịch, không để đứt gãy nền kinh tế. Có thể nói trong bất cứ cục, vụ, đơn vị nào, kể cả các đơn vị sự nghiệp, ở bất kỳ vị trí công tác nào ở Văn phòng Chính phủ, tôi đều thấy có nhiều cán bộ, công chức, nhân viên, người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, tận tụy hết mình và thầm lặng không quản ngày đêm, điều kiện thời tiết để hoàn thành công việc được giao. Thưa các đồng chí, Trong 05 năm qua, phong trào thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng được Văn phòng Chính phủ tích cực thực hiện; các phong trào đều được triển khai sâu rộng, thiết thực. Tôi đánh giá cao việc Văn phòng Chính phủ có nhiều đổi mới, sáng tạo, tổ chức phát động 6 phong trào thi đua với những khẩu hiệu, nội dung và giải pháp hành động cụ thể, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, hướng tới mục tiêu tạo khí thế thi đua sôi nổi, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao phó. Đặc biệt Văn phòng Chính phủ đã đi đầu trong việc thực hiện một số nhiệm vụ quan trọng như xây dựng Chính phủ điện tử, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi về đầu tư kinh doanh cho người dân và doanh nghiệp… Qua các phong trào thi đua, các tập thể và từng cán bộ, công chức,viên chức  người lao động có sự chuyển biến mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tích trong các mặt công tác. Công tác khen thưởng đã kịp thời động viên, khích lệ và cổ vũ tinh thần cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, lan tỏa hiệu ứng toàn cơ quan thi đua phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu công tác. Thưa các đồng chí, Trong 75 năm qua, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù với các tên gọi khác nhau, Văn phòng Chính phủ cũng luôn vượt qua khó khăn thách thức, phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, đảm nhận trách nhiệm nặng nề và hết sức vẻ vang là trực tiếp tham mưu, giúp việc, phục vụ Chính phủ – cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước ta. Trong suốt chặng đ¬ường lịch sử vẻ vang đó, Văn phòng Chính phủ ngày càng trưởng thành, phát triển và có đóng góp rất quan trọng, thiết thực vào những thành quả cách mạng to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Những thành quả đạt được trong thời gian là sự tiếp nối truyền thống quý báu được vun đắp bởi nhiều thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Văn phòng Chính phủ qua các giai đoạn phát triển của đất nước. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi nhiệt liệt chúc mừng và biểu dương những nỗ lực, thành tích và đóng góp của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Văn phòng Chính phủ đã đạt được trong suốt 75 năm qua. Tôi cũng chúc mừng các chiến sỹ thi đua, cá nhân điển hình tiên tiến, đại diện xuất sắc trong Phong trào thi đua yêu nước của Văn phòng Chính phủ trong giai đoạn 2015-2020. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự trân trọng biết ơn đến các đồng chí cán bộ lão thành của Chính phủ, các đồng chí nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ qua các thời kỳ đã có những đóng góp to lớn trong quá trình xây dựng và phát triển của cơ quan chúng ta. Thưa các đồng chí, Chúng ta đang ở trong một giai đoạn lịch sử đầy thử thách, khó khăn. Tình hình an ninh, chính trị trên thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp; thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược cạnh tranh gay gắt. Tranh chấp chủ quyền biên giới, biển, đảo diễn biến phức tạp. Tình hình dịch bệnh ngày càng nghiêm trọng, tác động sâu rộng tới toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới. Những tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài ngày càng tăng khi nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, độ mở của nền kinh tế cao, sức chống chịu vẫn còn hạn chế. Đặc biệt, đại dịch COVID-19 bùng phát, lan rộng ảnh hưởng rất lớn đến tình hình phát triển kinh tế-xã hội, đời sống nhân dân và khả năng hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần có sự nhận diện sâu sắc, đánh giá đầy đủ về tình hình, cần có chiến lược và sách lược phù hợp. Trên cơ sở đường lối, nguyên tắc đổi mới của Đảng, Chính phủ vẫn kiên định chính sách để cải cách mạnh mẽ và linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành vì lợi ích quốc gia, dân tộc; quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội mà Đảng, Quốc hội đã đề ra, trước mắt là “mục tiêu kép” – đẩy lùi dịch bệnh và không để đứt gãy các hoạt động kinh tế-xã hội, bảo đảm tăng trưởng dương.  Tình hình và bối cảnh đó đòi hỏi Văn phòng Chính phủ phải ngày càng làm tốt hơn chức năng tham mưu tổng hợp, trực tiếp giúp việc cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Với tinh thần đó, tôi đề nghị Văn phòng Chính phủ tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau: Thứ nhất, Văn phòng Chính phủ phải tiếp tục khẳng định vai trò là cơ quan tham mưu tổng hợp chuyên nghiệp, hiện đại, vững vàng, tin cậy cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành đất nước. Văn phòng Chính phủ là cơ quan giúp “truyền và giữ lửa” tinh thần cải cách, xây dựng Chính phủ kiến tạo, phát triển, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp. Văn phòng Chính phủ cần chủ động nghiên cứu, đề xuất kịp thời với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xây dựng những cơ chế, chính sách; thực hiện những giải pháp chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn trong từng thời kỳ, nhất là  đối với tình hình hiện nay. Thứ hai, Văn phòng Chính phủ phải đồng thời thực hiện thật tốt cả 3 chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là:  (1) Tham mưu tổng hợp, giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ điều hoà, phối hợp tổ chức các hoạt động chung của Chính phủ; giúp Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động hiệu lực, hiệu quả của hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, chống cho được bệnh quan liêu, xa dân, chỉ có hình ảnh tốt trên giấy tờ, trên ti-vi, còn thực tế vẫn để người dân, doanh nghiệp khó khăn, bị nhũng nhiễu; (2) Bảo đảm thông tin, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cung cấp thông tin cho công chúng theo quy định của pháp luật; (3) Bảo đảm các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trong 3 chức năng, nhiệm vụ này, nếu các đồng chí coi nhẹ bất kỳ nhiệm vụ nào thì sẽ không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; thực hiện phê bình và tự phê bình. Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tài, có tầm, tận tâm, tận lực phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức Văn phòng Chính phủ cần đề cao kỷ luật, kỷ cương công tác; tăng cường đoàn kết nội bộ; nêu cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân, thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”.  Văn phòng Chính phủ phải là cơ quan tiên phong trong phát động, thực hiện các phong trào thi đua; là cơ quan điển hình trong cả nước về tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Thưa các đồng chí, Mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Văn phòng Chính phủ ngày nay phải nhận thức sâu sắc rằng chúng ta được công tác tại Văn phòng Chính phủ, được tham gia tham mưu, giúp việc, phục vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ không chỉ là niềm vinh dự, tự hào to lớn mà còn là trách nhiệm nặng nề, vẻ vang. Từ nhận thức và niềm tự hào đó, tôi tin tưởng rằng, với truyền thống 75 năm xây dựng và phát triển, toàn thể cán bộ, công chức, viên chức Văn phòng Chính phủ chúng ta sẽ tiếp tục đoàn kết, sáng tạo, hăng hái thi đua, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, tiếp tục ghi thêm những trang sử vẻ vang của Văn phòng Chính phủ, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tôi xin chúc Văn phòng Chính phủ của chúng ta tiếp tục giữ vững truyền thống, không ngừng đổi mới và phát triển; chúc phong trào thi đua của cơ quan Văn phòng Chính phủ tiếp tục lập được nhiều thành tích mới; chúc tất cả các đồng chí và gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công. Xin trân trọng cảm ơn.

Toàn Văn Phát Biểu Của Bí Thư Thành Ủy Tphcm Nguyễn Thiện Nhân Tại Lễ Kỷ Niệm 45 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Đất Nước

Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TPHCM đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: VIỆT DŨNG

PHÁT BIỂU CỦA ĐỒNG CHÍ NGUYỄN THIỆN NHÂN, ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ, BÍ THƯ THÀNH ỦY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TẠI LỄ KỶ NIỆM 45 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30-4-1975 – 30-4-2020)

Kính thưa đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam!

Kính thưa đồng chí Trương Hòa Bình – Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ!

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam!

Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, quý Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động!

Kính thưa quý đại biểu!

Kính thưa đồng chí, đồng bào Thành phố! Hôm nay, trong không khí hào hùng của những ngày tháng Tư lịch sử, cùng với đồng bào cả nước, Thành ủy – Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân – Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Thay mặt Thành ủy – Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân – Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, tôi xin trân trọng gửi đến các đồng chí lão thành cách mạng, quý Mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động; các cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đìng có công với nước; quý vị đại biểu và đồng bào, đồng chí trên địa bàn Thành phố lời thăm hỏi thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa – dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong thời khắc thiêng liêng, xúc động này, chúng ta thành kính tưởng nhớ và đời đời biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam – Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông đất nước ta; chúng ta bày tỏ sự tri ân, biết ơn vô hạn sự cống hiến to lớn của các thế hệ tiền bối cách mạng đi trước, tưởng nhớ biết bao đồng bào, đồng chí đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; chúng ta mãi mãi biết ơn sự hy sinh vô bờ bến của quý Mẹ Việt Nam anh hùng, các chiến sĩ của lực lượng tình báo, lực lượng binh vận, các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước, lực lượng thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện, của đồng bào, chiến sĩ cả nước, và Nhân dân Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn – Thành phố Hồ Chí Minh cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc, vì cuộc sống và hạnh phúc của Nhân dân.

Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,

Cách đây hơn một thế kỷ, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng, với khát vọng tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đã bắt đầu cuộc hành trình 30 năm ròng, qua 4 châu lục và 28 quốc gia.

Ngày 3-2-1930, dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, kết thúc thời kỳ “đen tối không có đường ra” của phong trào cách mạng nước ta. Và cũng từ đấy, đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã có Đảng dẫn lối đưa đường, để giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do và tự quyết định vận mệnh của mình.  

Trải qua hai cuộc tổng dợt chiến lược và quy tụ quần chúng làm cách mạng giải phóng dân tộc – là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 và khởi nghĩa Nam Kỳ oanh liệt 1940, với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh vào ngày 19-5-1941 và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tháng 12-1944, Đảng ta đã tạo ra các tiền đề cần thiết để tổ chức lực lượng quần chúng cách mạng ở cả 3 miền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, có lực lượng vũ trang của riêng mình, tận dụng thời cơ lịch sử của Chiến tranh Thế giới thứ 2 đi vào giai đoạn kết thúc – tổ chức cướp chính quyền và lãnh đạo làm nên Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. 

Chính với tinh thần: toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải, để giữ vững quyền tự do, độc lập, mà quân và dân ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc chính phủ Pháp phải chấm dứt cuộc xâm lược ở Việt Nam. 

Nhưng với dã tâm xâm chiếm Việt Nam, chính phủ Mỹ đã phá hoại việc thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết năm 1954, xúc tiến kế hoạch xâm nhập vào miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, làm căn cứ tiến công miền Bắc – tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á. Chế độ Mỹ – Ngụy đã đàn áp dã man những người cách mạng và phong trào cách mạng ở miền Nam, Mỹ mở rộng ném bom ra miền Bắc từ 1964. Trong bản Di chúc 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. 

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự chi viện sức người, sức của của hậu phương lớn miền Bắc, được sự hỗ trợ tích cực của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân các nước trên thế giới, quân và dân miền Nam đã anh dũng, kiên cường đấu tranh chống chế độ Mỹ – Ngụy, lần lượt đánh bại các chiến lược của Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pa-ri 1973, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Sau khi ký Hiệp định Pa-ri, Chính phủ Mỹ vẫn ngoan cố thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiếp tục viện trợ về kinh tế, quân sự cho chính quyền Sài Gòn nhằm phá hoại Hiệp định Pa-ri, giành lại thế chủ động trên chiến trường. Hội nghị Trung ương lần thứ 21, tháng 7-1973, đã phân tích thành quả cách mạng miền Nam trong 18 năm qua, khẳng định con đường cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Sau hội nghị, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Quân ủy Trung ương lập tổ công tác đặc biệt – Tổ Trung tâm – để soạn thảo Kế hoạch chiến lược Giải phóng miền Nam trình Bộ Chính trị. Tổ trung tâm đã kiến nghị: Phải có những đòn quyết định, tiêu diệt tập đoàn chiến lược lớn của địch để nhanh chóng thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế và bước nhảy vọt về thời cơ. Ngày 29-7-1974, ta đánh chi khu quân sự Thượng Đức, qua 10 ngày chiến đấu liên tục, ta đã làm chủ chi khu quân sự Thượng Đức. Tại hội nghị Bộ Chính trị ngày 30-9-1974, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá cao chiến thắng quân sự Thượng Đức: “Tôi đặc biệt lưu ý hội nghị về trận Thượng Đức. Qua đó thấy rõ: Khi không dựa được vào sự chi viện lớn của không quân Mỹ, khi không còn nhiều đạn pháo để sử dụng thì sức chiến đấu của quân Ngụy rất yếu. Cả trong tấn công cũng như phòng ngự. Cuối cùng, tôi khẳng định: thời cơ chiến lược đã đến, cần khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, đi đôi với đấu tranh chính trị, cần có những trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt lớn quân địch để dành chiến thắng. Hội nghị đã thông qua kế hoạch quyết tâm hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 – 1976 trên 2 hướng chiến lược là Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy và đã kết thúc bằng sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 26-4-1975 – 30-4-1975 giải phóng miền Nam, kéo theo các cuộc nổi dậy của quân và dân ở Đồng bằng sông Cửu Long trong ngày 1 và ngày 2 – 5- 1975, đưa tới việc giải phóng toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Bắc – Nam sum họp một nhà. 

Đại thắng mùa Xuân 1975 là chiến công chói lọi, là thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Thắng lợi đó là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với đất nước ta – kỷ nguyên độc lập, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đánh giá về tầm vóc thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IV của Đảng ta đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định là chiến trường trọng điểm, nơi đầu sóng ngọn gió, đã “đi trước”, mở đầu cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ chống thực dân Pháp xâm lược với sự kiện Nam bộ Kháng chiến ngày 23 tháng 9 năm 1945 và đã “về sau” trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong suốt 30 năm chống thực dân, đế quốc xâm lược 1945-1975, Đảng bộ Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định luôn nhận thức sâu sắc và tâm huyết thực hiện bài học về xây dựng, mở rộng và nâng cao thế trận lòng dân, xây dựng vững chắc căn cứ lòng dân, luôn luôn gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát huy sức mạnh vô địch của Nhân dân thì kháng chiến mới thắng lợi, cách mạng mới thành công; bài học về thường xuyên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. 

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 02 tháng 7 năm 1976, Thành phố Sài Gòn – Gia Định chính thức vinh dự được mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Thành phố trải qua quá trình 45 năm năng động, sáng tạo, đoàn kết, nghĩa tình, phấn đấu với quyết tâm cao để xây dựng, bảo vệ và phát triển Thành phố, xứng đáng với vinh dự là Thành phố mang tên Bác, Thành phố Anh hùng. Thành phố đã nhạy bén, bản lĩnh, năng động, sáng tạo, bám sát thực tiễn để vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; và từ thực tiễn sinh động của Thành phố sau những năm giải phóng, chúng ta đã góp phần quan trọng cùng Trung ương chuyển dần cơ chế, chính sách quản lý kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp sang cơ chế quản lý kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 1982, năm 2002 và năm 2012, Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết xác định vị trí và tầm quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh; đặc biệt, năm 2017, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 54 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, đây là quyết sách quốc gia đột phá, đồng bộ, kịp thời, phù hợp tình hình phát triển của Thành phố sau 45 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gần 35 năm đổi mới, giúp Thành phố vừa phát huy tốt hơn các thế mạnh truyền thống của mình trong quá trình phát triển, vừa phát huy tốt nhất các nguồn lực trong Nhân dân, trong các nhà đầu tư, đối tác quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển Thành phố nhanh hơn, bền vững hơn vì cả nước, cùng cả nước.

Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,

45 năm xây dựng, phát triển và hàn gắn vết thương chiến tranh, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, như:

1. Kinh tế TPHCM tăng trưởng cao nhất cả nước, Thành phố luôn giữ vững vị trí đầu tàu kinh tế cả nước. Mặc dù chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,6% lao động cả nước, nhưng TPHCM đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm nội địa, chiếm 23% GDP và đóng góp lớn nhất thu ngân sách cả nước, chiếm 27%). 

2. Chất lượng tăng trưởng không ngừng được cải thiện, năng suất lao động bằng 2,7 lần năng suất bình quân cả nước.

3. TPHCM có Khu công nghệ cao  với tổng đầu tư trên 7 tỷ USD, xuất khẩu trên 8 tỷ USD, trên 36.000 lao động và là Khu công nghệ cao thành công nhất cả nước. TPHCM có Khu Công viên phần mềm Quang Trung với 200 doanh nghiệp và đầu tư, hơn 11.000 kỹ sư, chuyên gia công nghệ thông tin, hơn 10.000 sinh viên CNTT học tập trong Khu công viên phần mềm Quang Trung. Doanh thu năm qua hơn 12.000 tỷ đồng, trong đó hơn 80% là từ doanh thu xuất khẩu và đây là công viên phần mềm thành công nhất cả nước. 

4. TPHCM là địa phương đầu tiên có quyết định xây dựng TPHCM trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2025, đang được triển khai tích cực.

5. TPHCM cũng đang quy hoạch và triển khai xây dựng Khu đô thị sáng tạo phía Đông TPHCM với mục tiêu là động lực cho Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở TPHCM.

6. Công tác quy hoạch, quản lý và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị đạt nhiều kết quả thiết thực. Đầu năm 2021, tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành – Suối Tiên sẽ đi vào hoạt động. 

7. Văn hóa, giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày một phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng cao, an sinh xã hội được đảm bảo, chăm lo đời sống cho các đối tượng nghèo, gia đình chính sách có nhiều tiến bộ. 

8. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. 

9. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và vận động Nhân dân hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ và đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống chính trị được củng cố, hoạt động ngày càng hiệu quả; cán bộ, công chức, đảng viên tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lòng tin trong Nhân dân tiếp tục được củng cố, đóng góp quan trọng vào việc ổn định, bảo vệ và phát triển Thành phố. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII đã được các cấp ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện hiệu quả công tác tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt Đảng, phát huy vai trò nêu gương của cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng đơn vị, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Việc thực hiện Quy định 1374 của Ban Thường vụ Thành ủy đã phát huy tinh thần trách nhiệm, ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, tạo chuyển biến tích cực, góp phần đấu tranh ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thành phố.

Tuy nhiên, với vị trí, vai trò và tiềm năng của Thành phố trong Vùng kinh tế trong điểm phía Nam, TPHCM cần phải giải quyết các hạn chế, yếu kém. Việc phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ thành phố còn hạn chế; việc giám sát, phản biện của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội hiệu quả chưa cao; hiệu quả sử dụng các nguồn lực nhà nước và nguồn lực xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội thành phố chưa cao; công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu. 

Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,

Trong những tháng đầu năm 2020, tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do vi rút Cô-rô-na (Covid-19) diễn ra hết sức phức tạp, đã và đang có nhiều tác động đến Thành phố. Cùng với cả nước, Thành phố đã chủ động, quyết liệt, sáng tạo triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và thực hiện tốt công tác chăm lo, hỗ trợ người nghèo, người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em, người bị mất việc do dịch bệnh…, góp phần bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn thành phố, chung tay cùng cả nước kiểm soát, ngăn chặn thành công lây nhiễm, không để xảy ra dịch ở TPHCM cũng như trên cả nước.

Hiện nay, TPHCM đang tích cực chuẩn bị giai đoạn: phục hồi sản xuất, kinh doanh và các hoạt động xã hội, đồng thời ngăn chặn lây lan Covid-19, không để xảy ra dịch. Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn phải tiếp tục chủ động phát huy mọi nguồn lực để hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết 16-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và Nghị quyết 54 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng ta cần tập trung triển khai quyết liệt các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

1. Trong điều kiện bình thường mới, các ngành, các cấp cần nghiêm túc, quyết liệt phòng dịch bệnh Covid-19, để kiểm soát lây nhiễm, không để xảy ra dịch ở TPHCM là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế – xã hội năm 2020 và 2021. 

2. Tập trung tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; lấy sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo kết quả sự lãnh đạo của mình. Đảng bộ phải tập trung lãnh đạo để Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục không ngừng đổi mới, sáng tạo, phát triển toàn diện vì cả nước, cùng cả nước, vì hạnh phúc của Nhân dân và chịu trách nhiệm trước Nhân dân.

4.  Tiếp tục giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước, đi đầu trong thực hiện mô hình tăng trưởng mới trong điều kiện bình thường mới. Phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở nghiên cứu và ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ, thúc đẩy phong trào đổi mới sáng tạo và tăng năng suất lao động, là trung tâm khởi nghiệp sáng tạo lớn nhất cả nước, triển khai quy hoạch và xây dựng Khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông TPHCM (gồm quận 2, quận 9 và Thủ Đức), đi đầu trong việc tận dụng các cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển mạnh kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn. 

5. Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa – xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu. Khơi dậy khát vọng của Nhân dân thành phố, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự cường và truyền thống năng động, sáng tạo của Thành phố Hồ Chí Minh, phát huy vai trò nền tảng của văn hóa, xây dựng gia đình hạnh phúc để thành phố và đất nước phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngang trình độ quốc tế ở các lĩnh vực ưu tiên. Không ngừng nâng cao chất lượng sống của Nhân dân thành phố.

6. Phát huy hiệu quả mọi nguồn lực xây dựng các hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tập trung ưu tiên đầu tư các dự án hạ tầng giao thông và hạ tầng số với hệ thống thông tin di động thế hệ 5 (5G); triển khai hiệu quả Đề án Đô thị thông minh, tập trung triển khai nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, tạo động lực phát triển TPHCM.  

7. Phát triển kinh tế – xã hội đi đôi với bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Giữ vững ổn định, an ninh chính trị, trật tự – an toàn xã hội và bảo đảm quốc phòng trong mọi tình huống, không để bị động bất ngờ, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của thành phố. 

Kính thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,

Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xin hứa với Bác sẽ tiếp tục noi gương Bác và các anh hùng liệt sĩ, đoàn kết, sáng tạo, bản lĩnh, vượt qua các khó khăn thách thức trong giai đoạn hiện nay. Kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ; tiếp tục thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, cùng cả nước, vì cả nước, xây dựng TPHCM xứng đáng là thành phố anh hùng, thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu, thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình. 

Tôi xin kính chúc đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu mạnh khỏe, thành công và hạnh phúc.

Xin trân trọng cảm ơn!

Các Ngày Lễ Kỷ Niệm Và Lịch Sử

(Hình ảnh người dân thủ đô quần áo chỉnh tề cầm cờ hoa chào đón các chiến sĩ trở về)

Theo nghị quyết ngày 17/9/1954 của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban quân chính thành phố Hà Nội được thành lập do thiếu tướng Vương Thừa Vũ, tư lệnh sư đoàn Quân Tiên phong làm Chủ tịch và bác sĩ Trần Duy Hưng làm Phó Chủ tịch. Ủy ban quân chính có nhiệm vụ tiếp thu và quản lý thành phố. Bộ Tư lệnh đã ra lệnh cho các đơn vị vào tiếp quản Hà Nội phải triệt để chấp hành các chính sách và kỷ luật của Chính phủ đề ra, phải luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu khiêu khích của bọn phá hoại. Sư đoàn Quân Tiên phong đã được Trung ương Đảng và Chính phủ giao nhiệm vụ tiếp quản Hà Nội.

Theo kế hoạch đã định, sáng 8/10/1954 các đơn vị quân đội chia nhiều đường tiến vào ngoại thành Hà Nội. Đếu 16giờ30 thì tiến đến đường đê La Thành, Vĩnh Tuy, Bạch Mai, Ngã Tư Sở, Ô Cầu Giấy và Nhật Tân.

6 giờ sáng ngày 9/10/1954, quân đội lại theo nhiều đường từ ngoại thành tiến vào nội thành chia làm nhiều cánh quân tiến vào 5 cửa ô chính rồi từ đó tỏa đi các nơi. Lần lượt bộ đội ta tiếp thu nhà Ga, phủ Toàn quyền, khu Đồn Thủy, khu Bờ Hồ, phủ Thống sứ. 16 giờ, quân đội Liên hiệp Pháp rời khỏi thành phố, lặng lẽ rút sang phía Bắc cầu Long Biên. 16giờ30, quân đội ta hoàn toàn kiểm soát thành phố Hà Nội, tiếp thu thành phố gọn gàng và trật tự.

Bộ đội ta tiến đến đâu, nhân dân ta đổ ra hai bên đường, phất cờ tung hoa, reo mừng không ngớt. Cổng chào, khẩu hiệu dựng lên khắp các đường phố, cờ đỏ sao vàng rực rỡ trên khắp các tầng nhà.

Ngày 10/10/1954:

5 giờ: Nhân dân thủ đô quần áo chỉnh tề mang cờ, ảnh Bác Hồ, những bó hoa tươi thắm, thành đội ngũ trật tự theo từng công sở, xí nghiệp, trường học, khu phố…, kéo tới những con đường đã được thông báo trước là bộ đội hành quân qua.

Đoàn xe đầu tiên do thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính và bác sĩ Trần Duy Hưng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quân chính dẫn đầu đi qua phố Hàng Đường, Hàng Đào và trung tâm thành phố.

8 giờ: Cánh quân phía Tây xuất phát từ Quần Ngựa. Đó là những chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn Thủ đô. Các chiến sĩ diễu binh qua Kim Mã, Hàng Đẫy, Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Ngang…, đến 9 giờ 45 tiến vào Cửa Đông thành Hà Nội.

8 giờ 45: Cánh quân phía Nam xuất phát từ Việt Nam học xá tiến qua Bạch Mai, phố Huế, vòng quanh hồ Gươm rồi vòng lại chiếm lĩnh toàn bộ khu vực Đồn Thủy và Đấu Xảo.

9 giờ 30: Đoàn cơ giới và pháo binh xuất phát từ Bạch Mai, qua phố Bạch Mai, phố Huế, 10 giờ 5 đến Bờ Hồ, qua Hàng Đào, Hàng Ngang, chợ Đồng Xuân, rẽ sang đường Cửa Bắc tiến vào thành lúc 10 giờ 45.

15 giờ: Còi Nhà hát Lớn thành phố nổi lên một hồi dài. Mấy chục vạn nhân dân Hà Nội đã trang nghiêm dự lễ chào cờ do Ủy ban Quân chính tổ chức tại sân vận động Cột Cờ với sự tham gia của các đơn vị quân đội. Sau lễ chào cờ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính Vương Thừa Vũ trân trọng đọc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô nhân ngày giải phóng.

Ngày 10/10/1954, Hà Nội sạch bóng quân thù, hân hoan đón mừng những người con chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô. Sự kiện đó đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa cực kì to lớn, mở ra một thời kỳ mới hết sức vẻ vang trong lịch sử ngàn năm văn hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội ở thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. Thủ đô ta hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của đế quốc thực dân; nhân dân lao động vĩnh viễn xóa bỏ mọi chế độ áp bức, bóc lột, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình và phấn khởi đi vào xây dựng xã hội mới, mở đầu sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.

Đảng và Nhà nước ta đã ba lần tặng thưởng cho Thủ đô Hà Nội Huân chương Sao Vàng vào các năm 1994, 2004, 2010 và danh hiệu thành phố Anh hùng vào năm 2000.

Tài Liệu Tuyên Truyền Kỷ Niệm 40 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam Thống Nhất Đất Nước 30/4

I. CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ, CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

1. Bối cảnh quốc tế và trong nước

Trên thế giới, sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ nổi lên cầm đầu phe đế quốc, có tiềm lực rất mạnh, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới. Mỹ từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương và sau thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao. Việt Nam trở thành tiêu điểm hội tụ những mâu thuẫn của thời đại. Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Nhiệm vụ tranh đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc

2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua gần 21 năm, là cuộc chiến tranh cứu nước dài ngày nhất, ác liệt nhất và phức tạp nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể phân kỳ cuộc kháng chiến thành năm giai đoạn chiến lược, mỗi giai đoạn có những chuyển biến về tương quan lực lượng, cục diện chiến tranh để đến giai đoạn cuối tạo bước nhảy vọt lớn đi đến giành thắng lợi hoàn toàn

a) Giai đoạn thứ nhất từ tháng 7 năm 1954 đến hết năm 1960: Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ

Tháng 5 năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Tháng 7 năm 1954, tại Hội nghị ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được diễn ra, nhưng Mỹ là một trong những nước dự hội nghị đã không ký tuyên bố cuối cùng của hội nghị “Thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. Mỹ nhanh chóng xúc tiến kế hoạch xâm nhập miền Nam nước ta để thay thế thực dân Pháp, thực chất là xâm chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân mới. Mỹ dựng lên chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm ở miền Nam với âm mưu tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa.

Ngay từ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá đúng bản chất, âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 7 năm 1954) chỉ rõ “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Đảng ta luôn nhất quán tinh thần chỉ đạo tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Bắc nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới, trong ba năm (1958 – 1960), ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị về quân sự cho cách mạng cả nước giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng.

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (tháng 01 năm 1959) đã xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam và chỉ rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam – Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Nghị quyết số 15-NQ/TW của Trung ương đã phản ánh đúng nhu cầu lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam trong tình thế thực sự chín muồi, định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên trong phong trào Đồng khởi (1959 – 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết lúc này của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam cũng như cả nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang cách mạng đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều vùng nông thôn. Lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước hình thành, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập. Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam đã được khởi động một cách độc đáo, khéo léo, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới.

b) Giai đoạn hai từ năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ

Từ cuối năm 1960, Mỹ áp dụng hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm nhưng đã liên tiếp bị thất bại. Để đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam, chiếm lại những địa bàn, vùng dân cư đã mất sau cuộc Đồng khởi của ta, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Đây là chiến lược đầu tiên trong ba loại chiến tranh nằm trong chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ.

Để đối phó với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng giải phóng miền Nam lên giai đoạn mới. Từ đây, cuộc khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng quy mô toàn miền. Trong những năm 1961 – 1964, nhân dân miền Nam vừa đấu tranh, vừa chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng với sự chi viện đắc lực từ miền Bắc. Nhiều trung đoàn chủ lực miền Nam được thành lập. Tích cực mở rộng căn cứ cách mạng, phát triển chiến tranh du kích, tăng cường đánh phá các căn cứ quân sự xung yếu của địch như sân bay, kho tàng, bến cảng, phá hệ thống ấp chiến lược do địch lập ra, liên tiếp giành thắng lợi trên các chiến trường. Điển hình là trận Ấp Bắc (tháng 01 năm 1963), chiến dịch Bình Giã (tháng 12 năm 1964 – tháng 01 năm 1965), Ba Gia (tháng 5 năm 1965 – tháng 7 năm 1965),  Đồng Xoài (tháng 5 năm 1965 – tháng 7 năm 1965).

Sau khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, chúng dùng 64 lần máy bay mở cuộc tiến công “Mũi tên xuyên” đánh ồ ạt ở các khu vực sông Gianh (Quảng Bình), Cửa Hội (Vinh), Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Quảng Ninh). Các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã nâng cao cảnh giác, hiệp đồng chặt chẽ, mưu trí dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, bắn rơi 8 máy bay. Ngày 05 tháng 8 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam. Chiến thắng ngày 5 tháng 8 năm 1964 cổ vũ mạnh mẽ khí thế chiến đấu, củng cố niềm tin và khẳng định ý chí quyết tâm đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đế quốc Mỹ của nhân dân ta. Trên miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới; quân và dân miền Bắc vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.

c) Giai đoạn ba từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ, cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc

Thực chất của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” là sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động, chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta; quân ngụy làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 – 30 tháng (từ giữa năm 1965 đến năm 1967). Chúng đưa vào miền Nam hơn nửa triệu quân Mỹ và quân đội một số nước chư hầu. Đồng thời sử dụng không quân và hải quân mở chiến dịch “Sấm rền”, đánh phá ác liệt với mưu đồ “đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”, hòng ngăn chặn chi viện từ miền Bắc và quốc tế vào miền Nam.

Trước tình hình leo thang chiến tranh của địch và những khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3 năm 1965) và lần thứ 12 (tháng 12 năm 1965) trên cơ sở phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và địch, Trung ương khẳng định sự thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ và hạ quyết tâm động viên lực lượng cả nước giữ vững chiến lược tấn công, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi lịch sử, kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước.

Trước tình hình đó, các lực lượng vũ trang cách mạng đã tăng cường xây dựng lực lượng ba thứ quân, đẩy mạnh tác chiến của bộ đội chủ lực kết hợp với hoạt động tác chiến rộng khắp của bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Chiến thắng Núi Thành của bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam (tháng 5 năm 1965), chiến thắng Vạn Tường (tháng 8 năm 1965), thắng lợi của các chiến dịch Plây – me (tháng 11 năm 1965) và tiếp đó là các chiến công vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966, 1966 – 1967) của Mỹ ở miền Nam, đẩy Mỹ vào thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược.

Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968 (tức đêm Mùng 1, rạng sáng Mùng 2 Tết Mậu Thân) các lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam đã tiến công và nổi dậy trên toàn miền, đồng loạt tiến công địch ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, đánh vào hầu hết cơ quan đầu não Trung ương, địa phương của Mỹ lẫn ngụy. Quần chúng nhiều vùng nông thôn đã nổi dậy mạnh mẽ, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, phá vỡ hàng loạt “Ấp chiến lược”, bức rút nhiều hệ thống đồn bót, giải phóng và giành quyền làm chủ, xây dựng chính quyền cách mạng, mở rộng và củng cố hậu phương ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 của ta như “Một đòn sét đánh” đối với bọn trùm xâm lược Mỹ, làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới.

d) Giai đoạn thứ tư từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán

Thực chất của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là “Đổi màu da trên xác chết”, “Dùng người Việt giết người Việt”, “Dùng người Đông Dương giết người Đông Dương” bằng tiền của và vũ khí của Mỹ, do người Mỹ chỉ huy. Chính quyền Ních-xơn vừa từng bước rút quân Mỹ, vừa ra sức củng cố và tăng cường ngụy quân, ngụy quyền, vừa phản công và tiến công quyết liệt để chống phá ta. Chúng tập trung hầu hết lực lượng của Mỹ – ngụy để bình định nông thôn, sử dụng phương tiện chiến tranh hiện đại, kể cả vũ khí hóa học, chiến tranh điện tử và không quân chiến lược để tiến hành chiến tranh hủy diệt, chiến tranh giành dân, đánh phá các căn cứ địa cách mạng và hậu phương của ta.

Trước tình hình đó, Đảng ta nhận định: Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất, kẻ thù chung của cả ba nước Đông Dương lúc này là đế quốc Mỹ xâm lược. Miền Nam Việt Nam là chiến trường chính, Campuchia là chiến trường yếu nhất của địch, Lào ngày càng có vị trí hiểm yếu, miền Bắc Việt Nam là hậu phương chung của cả ba nước Đông Dương. Quân và dân ta phối hợp với Lào và Campuchia, đánh địch trên khắp chiến trường ba nước Đông Dương, đập tan cuộc hành quân “Lam Sơn 719” ở Đường 9 – Nam Lào, đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 01 năm 1971” ở Campuchia, đánh tơi tả lực lượng của địch ở ngã ba biên giới, tiêu diệt địch trong cuộc hành quân “Chen La II” ở Đông Bắc Campuchia, đập tan quá trình tiến công – phản kích bằng các cuộc hành quân lớn của Mỹ, ngụy trên chiến trường ba nước Đông Dương.

Ngày 06 tháng 4 năm 1972, Mỹ huy động không quân và hải quân ồ ạt đánh phá miền Bắc lần thứ hai (đây còn gọi là “Chiến dịch Lainơ Bếchcơ”), thả mìn phong tỏa các hải cảng và bờ biển miền Bắc Việt Nam. Với tinh thần dũng cảm và cách đánh mưu trí linh hoạt, qua bảy tháng chiến đấu quyết liệt, quân và dân miền Bắc, nòng cốt là Quân chủng Phòng không, không quân; Quân chủng Hải quân; Binh chủng Pháo binh, đã bắn rơi hơn 600 máy bay, trong đó có chiếc thứ 4.000 bị bắn rơi trên miền Bắc, bắn chìm và bắn cháy gần 100 tàu chiến Mỹ.

Ngày 22 tháng 10 năm 1972, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã hoàn thành, nhưng ngay ngày hôm sau, Mỹ lại tìm cách tráo trở. Khi nối lại các cuộc họp, phía Mỹ đòi sửa lại nhiều điểm quan trọng thuộc nội dung Hiệp định, đồng thời chúng liều lĩnh tiến hành một nấc thang chiến tranh mới cực kỳ tàn bạo. Từ ngày 18 đến ngày 29 tháng 12 năm 1972, Ních-xơn ra lệnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất mang tên “Chiến dịch Lainơ Bếchcơ II” vào miền Bắc. Một lần nữa, quân và dân miền Bắc đã anh dũng, mưu trí, chiến đấu kiên cường, trừng trị thích đáng không quân Mỹ.

e) Giai đoạn thứ năm từ cuối năm 1973 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975: tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước

Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Mỹ tăng cường tiền, của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho quân ngụy, lấn đất giành dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5 năm 1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.

Tháng 7 năm 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam – Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7 năm 1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 – 1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Đầu năm 1975, trên cơ sở đánh giá, so sánh lực lượng giữa ta và địch, nắm bắt thời cơ lịch sử, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược, giải phóng miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975. Ngày 04 tháng 3 năm 1975 bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên. Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11 tháng 3 năm 1975, quân ta tiến công bằng sức mạnh binh chủng hợp thành, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là trận đánh then chốt của chiến dịch, một trận điểm đúng huyệt, tiêu diệt nhiều lực lượng tinh nhuệ và khí tài chiến tranh của địch, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ ở chiến trường Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975.

Trên cơ sở những thắng lợi có ý nghĩa quyết định, ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn – Gia Định và hoàn toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, các đơn vị chủ lực của quân đội ta đã thực hiện cuộc hành quân thần tốc, tiến về giải phóng Sài Gòn:

Hướng Tây Bắc có Quân đoàn 3 tăng cường phối hợp với lực lượng vũ trang Tây Ninh, Sài Gòn – Gia Định;

Hướng Bắc và Đông Bắc có Quân đoàn 1 tăng cường lực lượng đặc công, xe tăng, cao xạ;

Hướng Đông và Đông Nam có Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 tăng cường pháo binh, xe tăng, cao xạ, đặc công, biệt động;

Hướng Tây và Tây Nam có Đoàn 232 chủ lực miền Nam và chủ lực Quân khu 8, lực lượng tương đương một quân đoàn;

Vùng ven và nội thành Sài Gòn có các đơn vị đặc công, pháo binh kết hợp với lực lượng chính trị của quần chúng.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, các binh đoàn đột kích thọc sâu kết hợp với lực lượng bên trong nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch ở nội thành như: Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, căn cứ Hải quân, Cảng Bạch Đằng, Đài Phát thanh, Tổng nha cảnh sát Trung ương. Binh đoàn hỗn hợp chủ lực của Quân đoàn 2 ta chiếm “Dinh Độc Lập” lúc 10 giờ 45 phút, bắt toàn bộ ngụy quyền Trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ giải phóng đã tung bay trước tòa nhà chính “Dinh Độc Lập” lúc 11 giờ 30 phút, ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng; cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 thắng lợi hoàn toàn.

II. Ý NGHĨA, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

1. Ý nghĩa thắng lợi

1.1. Đối với nhân dân ta

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:

– Đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản, quyết định của con đường cách mạng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ Chính cương vắn tắt 1930 – Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự do, ấm no, hạnh phúc.

– Kế tục Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), là trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945 – 1975) gian khổ, ác liệt, giành lại và giữ vững nền độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc. Từ đây cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh.

– Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, dân tộc ta và mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.

– Nâng vị thế chính trị của Việt Nam trên thế giới lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam trong thế kỷ XX và mai sau.

1.2. Đối với thế giới

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta:

– Là một thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.

– Đập tan cuộc phản công lớn nhất, kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai của chủ nghĩa đế quốc; là trào lưu cách mạng của thời đại, mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

– Làm sáng tỏ tính hiện thực, tính phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ vũ các dân tộc dũng cảm, kiên cường, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và trực tiếp góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước láng giềng Lào và Campuchia anh em.

– Là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại về sức mạnh của đế quốc Mỹ.

– Nêu bật một chân lý: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc mà nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mácxít-Lêninít, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược.

2. Nguyên nhân thắng lợi

– Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

– Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con người.

– Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

– Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.

– Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Camphuchia.

3. Những bài học kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

– Kiên định, quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

– Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.

– Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo.

– Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc.

– Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai trò của hậu phương lớn và hậu phương vững chắc.

– Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

– Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc.

– Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.

BTV Hội LHPN quận Hà Đông

Bạn đang xem bài viết Phát Biểu Của Thủ Tướng Tại Lễ Kỷ Niệm 75 Năm Ngày Truyền Thống Và Đại Hội Thi Đua Yêu Nước Vpcp Giai Đoạn 2022 trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!