Cập nhật thông tin chi tiết về Phương Châm “Thần Tốc, Táo Bạo, Bất Ngờ, Chắc Thắng” Trong Tổng Tiến Công Mùa Xuân 1975 mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thứ ba, 19 Tháng 4 2016 17:01
26549 Lượt xem
(LLCT) – Hội nghị Trung ương lần thứ 23 nhận định: “Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế sụp đổ đến nơi của nguỵ”(1). Bộ Chính trị khẳng định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo“thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể để chậm”(2).
Trung ương Đảng, Bộ Tổng tham mưu cùng quân và dân cả nước với tinh thần quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong một thời gian ngắn nhất, khi có thời cơ và điều kiện thuận lợi.
Sau chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Trị Thiên – Huế – Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, hàng chục tỉnh, thành phố, thị xã đã được giải phóng, gần một nửa binh lực quân nguỵ trên toàn miền Nam đã bị tiêu diệt và tan rã. Âm mưu co cụm chiến lược của chúng bị phá sản. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài Gòn bị hạn chế. Tình hình đó đã tạo ra một thời cơ chiến lược hết sức thuận lợi để bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Để bảo đảm thắng lợi nhanh chóng, Bộ Tổng tham mưu đã giải quyết hàng loạt vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề điều động và cơ động lực lượng cho chiến dịch. Ngoài những lực lượng có sẵn trên địa bàn, phải sử dụng một lực lượng cơ động từ xa. Quân đoàn 3 phát triển tiến công xuống đồng bằng Nam Trung Bộ rồi ngược lên Tây Nguyên hành quân thần tốc vào Nam Bộ. Quân đoàn 2 hành quân thần tốc gần một nghìn km trong 17 ngày đêm; tổ chức cho 2.376 xe các loại, trong đó có hơn 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100 pháo lớn từ 85 đến 155mm và hơn 100 khẩu pháo phòng không các loại vượt qua nhiều sông, suối, vừa hành quân vừa tiến hành đột phá tuyến phòng thủ của địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân. Đưa các lực lượng lớn kịp thời vào trận đánh một cách nhịp nhàng, đúng kế hoạch trong thời gian ngắn, bảo đảm bất ngờ, đó là điều kỳ diệu chưa từng thấy trong tổ chức và hành quân thần tốc, táo bạo của ta. Tập trung được lực lượng trong một thời gian nhanh chóng như vậy là một thành công đặc biệt, thể hiện một quyết tâm rất cao của quân và dân ta nhằm chớp thời cơ, thần tốc xốc tới giành thắng lợi quyết định.
Quá trình phát triển của cuộc tổng tiến công và nhất là thắng lợi mau chóng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã khiến cho Chính phủ và các nhà quân sự chiến lược Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn vô cùng sửng sốt, không sao hiểu nổi. Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, sau khi thoát thân ra được tàu Midway của Mỹ đã thốt lên rằng: “Điều tôi khó hiểu nhất là cuộc chiến đấu đã kết thúc quá nhanh… Cách đây chưa đầy một tuần tôi còn yêu cầu chính quyền để cho tôi được tiếp tục chiến đấu… Mới một tuần trước đây thôi, tôi còn cho rằng không thể chấm dứt mau chóng như thế được”(3). Tại Oasinhtơn, khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, Kítxinhgiơ ngậm ngùi nói: “Tôi cứ tưởng rằng họ có thể thương lượng một sự đầu hàng, chứ đâu lại… tuyên bố đầu hàng. Tôi không ngờ sự việc diễn ra nhanh chóng đến mức đó”(4). Còn tướng Oétmolen thì thú nhận: “Đó là một đòn đau đớn… Tôi phải nói rằng quá trình sụp đổ đã nhanh hơn thực tế tình hình mà tôi đã nghĩ”(5).
Điều mà đối phương không hiểu đã là hiện thực. Thần tốc, mau lẹ là một phương châm giành thắng lợi của Đảng ta khi thời cơ đến trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xét toàn bộ cuộc chiến tranh, trên cơ sở đánh lâu dài, đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, Đảng ta luôn năng động, sáng tạo và nắm bắt thời cơ, tranh thủ thời gian giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là sự thực hiện đường lối và phương châm trên một cách đúng đắn, sáng tạo nhất. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cũng như các tướng lĩnh chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã theo sát tình hình, giải quyết thấu đáo các vấn đề chỉ đạo chiến lược, chọn đúng phương hướng, tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ, xác định đúng hình thức tác chiến và cách đánh linh hoạt, phát hiện thời cơ sau mỗi trận đánh, sau mỗi chiến dịch, để tổ chức chiến đấu, giành thắng lợi nhanh chóng và toàn diện. Một khi thời cơ xuất hiện thì yêu cầu thần tốc trở thành một nội dung trong phương châm chỉ đạo chiến lược, cũng như trong hành động quân sự.
Tuy nhiên, muốn đánh nhanh, thắng nhanh cũng cần phải táo bạo, bất ngờ. Táo bạo là một phương châm, là một yêu cầu quan trọng của hành động quân sự, là nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo tiến công. Trong lịch sử dân tộc, Lý Thường Kiệt đã hết sức táo bạo trong hành quân, khi ông thực hiện chiến lược “tiêu phát chế nhân”, đánh trước để chặn mũi nhọn của quân địch. Quang Trung – Nguyễn Huệ táo bạo, dám tiến công địch khi chúng còn rất mạnh nhưng thiếu phòng bị. Những đòn đánh tài tình, bất thần, táo bạo đó thường dẫn đến thắng lợi vang dội. Trong chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa (1789), Nguyễn Huệ đã táo bạo sử dụng lực lượng ít hơn để thực hiện đánh hiểm, điểm huyệt, đánh thọc sâu vào đại bản doanh, vào trung tâm đầu não quân Thanh, khiến chúng không kịp trở tay. Trong chiến dịch đó, Nguyễn Huệ đã đánh địch trên nhiều hướng, sử dụng những lực lượng tinh nhuệ thọc sâu, bất ngờ, chia cắt và tiêu diệt quân địch. Trong khi tướng giặc Tôn Sĩ Nghị đang để tâm ở Ngọc Hồi thì nghe tin đạo quân đô đốc Long đã từ phía Tây Nam hạ đồn Đống Đa và đang tiến thẳng về đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị, khiến hắn sợ mất mật, bủn rủn chân tay, rút kiếm chém xuống đất nói: “Sao mà thần đến vậy”; rồi “người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên, nhằm thẳng hướng Bắc mà chạy”. “Quân Thanh như bị sét đánh mang tai, nghe tin hoảng hồn, tan tác, tranh nhau bỏ chạy”(6).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cách đánh táo bạo, bất ngờ, mãnh liệt thể hiện rất rõ không chỉ ở tư tưởng chỉ đạo mà cả trong hành động quân sự tiến công của quân và dân ta. Chưa bao giờ ta sử dụng một lực lượng quân sự lớn mạnh như ở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tham gia Chiến dịch gồm 5 quân đoàn tinh nhuệ cùng các lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh còn có hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn thuộc các quân và binh chủng với nhiều vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại. Đây là một bước phát triển mới, một biểu hiện của cách đánh táo bạo của Bộ chỉ huy về việc sử dụng tập trung lực lượng trong một chiến dịch tiến công, nhằm tạo thế lực áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu não của chúng. Nếu như trước kia, trong chiến dịch Thăng Long, Nguyễn Huệ đã mạnh bạo sử dụng cùng một lúc hàng trăm voi chiến mang trên mình hoả hổ, hoả pháo khiến kỵ binh của quân Thanh vô cùng khiếp sợ, thì tại Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã sử dụng khoảng 400 xe tăng và xe bọc thép, hơn hai chục trung đoàn, lữ đoàn, tiểu đoàn pháo binh, tên lửa và cả lực lượng không quân tham gia chiến đấu, khiến quân địch hết sức bất ngờ.
Trong một thời gian ngắn ta đã thực hiện được một cuộc hội quân lớn như vậy, chứng tỏ sự quyết tâm, táo bạo và trình độ tổ chức, chỉ huy chiến dịch của Bộ thống soái tối cao và các tướng lĩnh của quân đội ta. Tập trung lực lượng, bất ngờ tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là một nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi. Nhưng vấn đề còn quan trọng hơn là sự độc đáo sáng tạo của cách đánh thần tốc, táo bạo và bất ngờ của nghệ thuật tiến công. Cả Quang Trung – Nguyễn Huệ khi tiến công Thăng Long và quân ta khi giải phóng Sài Gòn – Gia Định đều thực hiện thế trận tiến công toàn diện, trên nhiều mũi, nhiều hướng; thực hiện bao vây, chia cắt, thọc sâu nhanh chóng và mãnh liệt, tạo nên thế áp đảo; vừa tiêu diệt, làm tan rã, vừa bịt đường tháo chạy của địch.
Để thực hiện cách đánh “thần tốc, táo bạo và bất ngờ”, ta đã sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào các mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra khiến cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Cách đánh đó đã đưa lại hiệu quả chiến dịch lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.
Thần tốc và táo bạo luôn tạo ra những bất ngờ lớn đối với địch, đồng thời đánh bất ngờ thường giành thắng lợi mau chóng. Đánh địch bất ngờ là một nguyên tắc mà dân tộc ta đã vận dụng một cách sáng tạo. Trong điều kiện nước nhỏ, quân ít phải chống lại những kẻ thù xâm lược lớn, đông quân và tàn bạo thì vận dụng lối đánh bất ngờ “xuất kỳ bất ý” là hết sức cần thiết. Nhân tố bất ngờ được nhà Trần vận dụng thành công trong kháng chiến chống Mông – Nguyên, khi tập kích ở Đông Bộ Đầu giải phóng Thăng Long năm 1288, hoặc tiến công địch ở Bạch Đằng Giang năm 1288. Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ” (Bình Ngô đại cáo). Lê Lợi cho rằng, nắm thời cơ đánh bất ngờ là phương châm hành động để “dùng sức một nửa mà công được gấp đôi”.
Đảng ta và quân, dân ta đã vận dụng và phát huy những kinh nghiệm đánh giặc của tổ tiên. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, điều kiện tương quan lực lượng đã khác trước. Quân ta đã vượt hẳn quân địch cả về thế và lực. Tuy nhiên, trong bất kỳ tình huống nào, yếu tố bất ngờ cũng là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh. Đòn “điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột, là một bất ngờ lớn đối với địch dẫn tới sự tan rã dây chuyền nhanh chóng của chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là một bất ngờ lớn hơn nữa mà địch tuy đã lường định nhưng vẫn không đoán được. Chúng đâu có ngờ ta sử dụng tới 5 quân đoàn và đơn vị tương đương tiến theo 5 hướng khác nhau trong đó có những mũi thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới. Chúng không ngờ ta đã huy động đến 400 xe tăng và xe bọc thép làm lực lượng đột kích, cùng 500 khẩu pháo lớn và hơn nửa triệu tấn vật chất kỹ thuật cho chiến dịch, chúng sửng sốt khi ta sử dụng cả lực lượng không quân. Và chúng càng không ngờ trận tiến công lại diễn ra và kết thúc nhanh chóng đến thế.
Như vậy, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng” là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động quân sự, là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh có tính truyền thống của dân tộc ta, đã trải qua một quá trình thừa kế, phát triển sáng tạo. Tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng là một trong những bài học quý của nghệ thuật quân sự Việt Nam thể hiện tiêu biểu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thắng lợi vĩ đại mùa Xuân 1975 chứng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, của các tướng lĩnh chỉ huy và sự nỗ lực phi thường của quân và dân cả nước. Chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4-1975 không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi nhất mà còn là nét nổi bật và đặc sắc nhất của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh.
Phát huy bài học “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để Quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trước tình hình mới. Muốn vậy, toàn quân cần quán triệt, thấu suốt quan điểm của Đảng về nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đồng thời, luôn có sự đổi mới và phát triển về nội dung và phương thức xây dựng Quân đội cho phù hợp trên nền tảng của tư duy mới về tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015
(1) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 (số 240-NQ/TW) ngày 25-12-1974.
(2) Hội nghị Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam (từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975).
(3) Lời thú nhận của vị tướng nguỵ Sài Gòn, Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1990.
(4) Tài liệu Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, t.1, TTXVN dịch, Hà Nội, 1971.
(5) Oétmolen tường trình của một quân nhân, Thư viện Quân đội dịch, Hà Nội, 1982.
(6) Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí , Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1984, tr.186.
Đại tá, PGS, TS Trần Nam Chuân
Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Phương Châm “Thần Tốc, Táo Bạo, Bất Ngờ, Chắc Thắng” Trong Tổng Tiến Công Mùa Xuân 1975
Thứ ba, 19 Tháng 4 2016 17:01
(LLCT) – Hội nghị Trung ương lần thứ 23 nhận định: “Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế sụp đổ đến nơi của nguỵ”(1). Bộ Chính trị khẳng định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể để chậm”(2).
Trung ương Đảng, Bộ Tổng tham mưu cùng quân và dân cả nước với tinh thần quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong một thời gian ngắn nhất, khi có thời cơ và điều kiện thuận lợi.
Sau chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Trị Thiên – Huế – Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, hàng chục tỉnh, thành phố, thị xã đã được giải phóng, gần một nửa binh lực quân nguỵ trên toàn miền Nam đã bị tiêu diệt và tan rã. Âm mưu co cụm chiến lược của chúng bị phá sản. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài Gòn bị hạn chế. Tình hình đó đã tạo ra một thời cơ chiến lược hết sức thuận lợi để bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Để bảo đảm thắng lợi nhanh chóng, Bộ Tổng tham mưu đã giải quyết hàng loạt vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề điều động và cơ động lực lượng cho chiến dịch. Ngoài những lực lượng có sẵn trên địa bàn, phải sử dụng một lực lượng cơ động từ xa. Quân đoàn 3 phát triển tiến công xuống đồng bằng Nam Trung Bộ rồi ngược lên Tây Nguyên hành quân thần tốc vào Nam Bộ. Quân đoàn 2 hành quân thần tốc gần một nghìn km trong 17 ngày đêm; tổ chức cho 2.376 xe các loại, trong đó có hơn 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100 pháo lớn từ 85 đến 155mm và hơn 100 khẩu pháo phòng không các loại vượt qua nhiều sông, suối, vừa hành quân vừa tiến hành đột phá tuyến phòng thủ của địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân. Đưa các lực lượng lớn kịp thời vào trận đánh một cách nhịp nhàng, đúng kế hoạch trong thời gian ngắn, bảo đảm bất ngờ, đó là điều kỳ diệu chưa từng thấy trong tổ chức và hành quân thần tốc, táo bạo của ta. Tập trung được lực lượng trong một thời gian nhanh chóng như vậy là một thành công đặc biệt, thể hiện một quyết tâm rất cao của quân và dân ta nhằm chớp thời cơ, thần tốc xốc tới giành thắng lợi quyết định.
Quá trình phát triển của cuộc tổng tiến công và nhất là thắng lợi mau chóng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã khiến cho Chính phủ và các nhà quân sự chiến lược Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn vô cùng sửng sốt, không sao hiểu nổi. Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, sau khi thoát thân ra được tàu Midway của Mỹ đã thốt lên rằng: ” Điều tôi khó hiểu nhất là cuộc chiến đấu đã kết thúc quá nhanh… Cách đây chưa đầy một tuần tôi còn yêu cầu chính quyền để cho tôi được tiếp tục chiến đấu… Mới một tuần trước đây thôi, tôi còn cho rằng không thể chấm dứt mau chóng như thế được”(3). Tại Oasinhtơn, khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, Kítxinhgiơ ngậm ngùi nói: “Tôi cứ tưởng rằng họ có thể thương lượng một sự đầu hàng, chứ đâu lại… tuyên bố đầu hàng. Tôi không ngờ sự việc diễn ra nhanh chóng đến mức đó”(4). Còn tướng Oétmolen thì thú nhận: “Đó là một đòn đau đớn… Tôi phải nói rằng quá trình sụp đổ đã nhanh hơn thực tế tình hình mà tôi đã nghĩ”(5).
Điều mà đối phương không hiểu đã là hiện thực. Thần tốc, mau lẹ là một phương châm giành thắng lợi của Đảng ta khi thời cơ đến trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xét toàn bộ cuộc chiến tranh, trên cơ sở đánh lâu dài, đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, Đảng ta luôn năng động, sáng tạo và nắm bắt thời cơ, tranh thủ thời gian giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là sự thực hiện đường lối và phương châm trên một cách đúng đắn, sáng tạo nhất. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cũng như các tướng lĩnh chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã theo sát tình hình, giải quyết thấu đáo các vấn đề chỉ đạo chiến lược, chọn đúng phương hướng, tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ, xác định đúng hình thức tác chiến và cách đánh linh hoạt, phát hiện thời cơ sau mỗi trận đánh, sau mỗi chiến dịch, để tổ chức chiến đấu, giành thắng lợi nhanh chóng và toàn diện. Một khi thời cơ xuất hiện thì yêu cầu thần tốc trở thành một nội dung trong phương châm chỉ đạo chiến lược, cũng như trong hành động quân sự.
Tuy nhiên, muốn đánh nhanh, thắng nhanh cũng cần phải táo bạo, bất ngờ. Táo bạo là một phương châm, là một yêu cầu quan trọng của hành động quân sự, là nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo tiến công. Trong lịch sử dân tộc, Lý Thường Kiệt đã hết sức táo bạo trong hành quân, khi ông thực hiện chiến lược “tiêu phát chế nhân”, đánh trước để chặn mũi nhọn của quân địch. Quang Trung – Nguyễn Huệ táo bạo, dám tiến công địch khi chúng còn rất mạnh nhưng thiếu phòng bị. Những đòn đánh tài tình, bất thần, táo bạo đó thường dẫn đến thắng lợi vang dội. Trong chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa (1789), Nguyễn Huệ đã táo bạo sử dụng lực lượng ít hơn để thực hiện đánh hiểm, điểm huyệt, đánh thọc sâu vào đại bản doanh, vào trung tâm đầu não quân Thanh, khiến chúng không kịp trở tay. Trong chiến dịch đó, Nguyễn Huệ đã đánh địch trên nhiều hướng, sử dụng những lực lượng tinh nhuệ thọc sâu, bất ngờ, chia cắt và tiêu diệt quân địch. Trong khi tướng giặc Tôn Sĩ Nghị đang để tâm ở Ngọc Hồi thì nghe tin đạo quân đô đốc Long đã từ phía Tây Nam hạ đồn Đống Đa và đang tiến thẳng về đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị, khiến hắn sợ mất mật, bủn rủn chân tay, rút kiếm chém xuống đất nói: “Sao mà thần đến vậy”; rồi “người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên, nhằm thẳng hướng Bắc mà chạy”. “Quân Thanh như bị sét đánh mang tai, nghe tin hoảng hồn, tan tác, tranh nhau bỏ chạy”(6).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cách đánh táo bạo, bất ngờ, mãnh liệt thể hiện rất rõ không chỉ ở tư tưởng chỉ đạo mà cả trong hành động quân sự tiến công của quân và dân ta. Chưa bao giờ ta sử dụng một lực lượng quân sự lớn mạnh như ở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tham gia Chiến dịch gồm 5 quân đoàn tinh nhuệ cùng các lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh còn có hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn thuộc các quân và binh chủng với nhiều vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại. Đây là một bước phát triển mới, một biểu hiện của cách đánh táo bạo của Bộ chỉ huy về việc sử dụng tập trung lực lượng trong một chiến dịch tiến công, nhằm tạo thế lực áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu não của chúng. Nếu như trước kia, trong chiến dịch Thăng Long, Nguyễn Huệ đã mạnh bạo sử dụng cùng một lúc hàng trăm voi chiến mang trên mình hoả hổ, hoả pháo khiến kỵ binh của quân Thanh vô cùng khiếp sợ, thì tại Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã sử dụng khoảng 400 xe tăng và xe bọc thép, hơn hai chục trung đoàn, lữ đoàn, tiểu đoàn pháo binh, tên lửa và cả lực lượng không quân tham gia chiến đấu, khiến quân địch hết sức bất ngờ.
Trong một thời gian ngắn ta đã thực hiện được một cuộc hội quân lớn như vậy, chứng tỏ sự quyết tâm, táo bạo và trình độ tổ chức, chỉ huy chiến dịch của Bộ thống soái tối cao và các tướng lĩnh của quân đội ta. Tập trung lực lượng, bất ngờ tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là một nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi. Nhưng vấn đề còn quan trọng hơn là sự độc đáo sáng tạo của cách đánh thần tốc, táo bạo và bất ngờ của nghệ thuật tiến công. Cả Quang Trung – Nguyễn Huệ khi tiến công Thăng Long và quân ta khi giải phóng Sài Gòn – Gia Định đều thực hiện thế trận tiến công toàn diện, trên nhiều mũi, nhiều hướng; thực hiện bao vây, chia cắt, thọc sâu nhanh chóng và mãnh liệt, tạo nên thế áp đảo; vừa tiêu diệt, làm tan rã, vừa bịt đường tháo chạy của địch.
Để thực hiện cách đánh “thần tốc, táo bạo và bất ngờ”, ta đã sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào các mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra khiến cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Cách đánh đó đã đưa lại hiệu quả chiến dịch lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.
Thần tốc và táo bạo luôn tạo ra những bất ngờ lớn đối với địch, đồng thời đánh bất ngờ thường giành thắng lợi mau chóng. Đánh địch bất ngờ là một nguyên tắc mà dân tộc ta đã vận dụng một cách sáng tạo. Trong điều kiện nước nhỏ, quân ít phải chống lại những kẻ thù xâm lược lớn, đông quân và tàn bạo thì vận dụng lối đánh bất ngờ “xuất kỳ bất ý” là hết sức cần thiết. Nhân tố bất ngờ được nhà Trần vận dụng thành công trong kháng chiến chống Mông – Nguyên, khi tập kích ở Đông Bộ Đầu giải phóng Thăng Long năm 1288, hoặc tiến công địch ở Bạch Đằng Giang năm 1288. Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ ” (Bình Ngô đại cáo). Lê Lợi cho rằng, nắm thời cơ đánh bất ngờ là phương châm hành động để “dùng sức một nửa mà công được gấp đôi”.
Đảng ta và quân, dân ta đã vận dụng và phát huy những kinh nghiệm đánh giặc của tổ tiên. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, điều kiện tương quan lực lượng đã khác trước. Quân ta đã vượt hẳn quân địch cả về thế và lực. Tuy nhiên, trong bất kỳ tình huống nào, yếu tố bất ngờ cũng là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh. Đòn “điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột, là một bất ngờ lớn đối với địch dẫn tới sự tan rã dây chuyền nhanh chóng của chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là một bất ngờ lớn hơn nữa mà địch tuy đã lường định nhưng vẫn không đoán được. Chúng đâu có ngờ ta sử dụng tới 5 quân đoàn và đơn vị tương đương tiến theo 5 hướng khác nhau trong đó có những mũi thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới. Chúng không ngờ ta đã huy động đến 400 xe tăng và xe bọc thép làm lực lượng đột kích, cùng 500 khẩu pháo lớn và hơn nửa triệu tấn vật chất kỹ thuật cho chiến dịch, chúng sửng sốt khi ta sử dụng cả lực lượng không quân. Và chúng càng không ngờ trận tiến công lại diễn ra và kết thúc nhanh chóng đến thế.
Như vậy, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng” là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động quân sự, là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh có tính truyền thống của dân tộc ta, đã trải qua một quá trình thừa kế, phát triển sáng tạo. Tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng là một trong những bài học quý của nghệ thuật quân sự Việt Nam thể hiện tiêu biểu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thắng lợi vĩ đại mùa Xuân 1975 chứng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, của các tướng lĩnh chỉ huy và sự nỗ lực phi thường của quân và dân cả nước. Chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4-1975 không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi nhất mà còn là nét nổi bật và đặc sắc nhất của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh.
Phát huy bài học “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để Quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trước tình hình mới. Muốn vậy, toàn quân cần quán triệt, thấu suốt quan điểm của Đảng về nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đồng thời, luôn có sự đổi mới và phát triển về nội dung và phương thức xây dựng Quân đội cho phù hợp trên nền tảng của tư duy mới về tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015
(1) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 (số 240-NQ/TW) ngày 25-12-1974.
(2) Hội nghị Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam (từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975).
(3) Lời thú nhận của vị tướng nguỵ Sài Gòn, Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1990.
(4) Tài liệu Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, t.1, TTXVN dịch, Hà Nội, 1971.
(5) Oétmolen tường trình của một quân nhân, Thư viện Quân đội dịch, Hà Nội, 1982.
(6) Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí , Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1984, tr.186.
Đại tá, PGS, TS Trần Nam Chuân
Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Những Bức Điện Lịch Sử Trong Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân Năm 1975.
..Trong suốt quá trình chiến đấu, khắp các mặt trận đều thường xuyên, liên tục nhận được những bức điện chỉ đạo rất nhanh nhạy, sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, góp phần cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ quyết tâm giành được thắng lợi cuối cùng.
10h45′ ngày 30/4/1975, xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng dinh Độc Lập cùng bộ đội tiến vào bắt sống Tổng thống ngụy Dương Văn Minh và toàn bộ nộicác chính quyền Sài Gòn, kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh
…Tây Nguyên, rồi Trị Thiên – Huế, Đà Nẵng thất thủ đã làm cho những tấm lá chắn của quân ngụy ở phía Bắc đã bị phá toang. Con đường chiến thắng của quân ta dẫn tới sào huyệt cuối cùng của chế độ Sài Gòn đang mở rộng.
Ngay trước khi giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng, chiều 29 tháng 3 năm 1975, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn gửi điện cho Trung ương Cục miền Nam: “…Tình hình biến chuyển mau lẹ. Cuộc cách mạng miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt… Trên thực tế, có thể coi chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu từ đây”.[1]
Sáng ngày 31 tháng 3 năm 1975, tại Hà Nội, Bộ Chính trị họp mở rộng. Đây là cuộc họp lịch sử bàn về đòn chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Không khí phấn khởi tràn ngập “Nhà con rồng” – (tức phòng họp của Bộ Tổng Tư lệnh xây dựng trên nền Điện Kính thiên trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long – BT), những nét mặt rạng rỡ, những ánh mắt sáng ngời, những cái bắt tay hứa hẹn…
Sau khi phân tích kỹ tình hình chiến trường, Hội nghị nhất trí nhận định những nhân tố mới đã xuất hiện rõ nét trong trận Đà Nẵng. Ta hơn hẳn địch cả về thế chiến lược lẫn lực lượng quân sự, chính trị. Dù Mỹ có tăng viện cũng không thể cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất. Phương thức tác chiến chiến lược của ta là phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược (chủ lực, nông thôn và thành thị), từ ngoài đánh vào, kết hợp với lực lượng tại chỗ từ trong đánh ra, lấy chủ lực từ ngoài đánh vào là quyết định, tập trung lực lượng tiến công địch, nhanh chóng lợi dụng thời cơ, dồn dập phát triển thắng lợi…
Sau hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn điện ngay vào chiến trường: “…Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp. Tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc”.[2]
Từ cuộc họp ngày 31 tháng 3 năm 1975, số phận của chế độ Sài Gòn đã được định đoạt. Quyết tâm của Bộ Chính trị cổ vũ mạnh mẽ nhiệt tình cách mạng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.
Ngày 7 tháng 4 năm 1975, căn cứ tin tức từ các mặt trận báo về, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị đang đổ vào chiến trường: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”.[3]
Đến ngày 14 tháng 4 năm 1975, thể theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch tấn công vào Sài Gòn – Gia Định và nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước, trong bức điện số 37-TK, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị đã đáp ứng kịp thời ý nguyện thiết tha và thiêng liêng ấy: “Đồng ý Chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”.[4]
Vậy là kể từ ngày 14 tháng 4 năm 1975, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm được vinh dự mang tên vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Trong suốt quá trình phát động cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, thực hiện truyền thống nhân nghĩa “lấy trí nhân thay cường bạo”, “đánh kẻ chạy đi, chứ không đánh người chạy lại” của dân tộc ta, nên Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương luôn nhắc nhở các cánh quân phải thực hiện đúng chế độ nhân đạo đối với tù binh và hàng binh của địch. Trong bức điện của Ban Bí thư, ngày 18 tháng 4 năm 1975 đã nhấn mạnh: “…Các loại binh lính sĩ quan của địch đã bỏ ngũ về nhà, về hưu, giải ngũ, trình diện, thì coi như dân thường… Những tên là lính và hạ sĩ quan nếu đã cải tạo tốt có quê ở vùng giải phóng thì cho về với gia đình”.[5] Cũng chính nhờ có chính sách nhân đạo và khoan dung này đã góp phần làm lung lạc, giảm sút tinh thần chiến đấu của quân ngụy.
Để chuẩn bị cho những trận đánh cuối cùng, từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn vận tải Trường Sơn vận chuyển vào Nam Bộ 115.000 quân và 90.000 tấn hàng (trong đó có 37.000 tấn vũ khí, 9.000 tấn xăng dầu). Riêng trong những ngày “chuẩn bị nước rút” từ ngày 5 đến ngày 26 tháng 4, vừa khai thác vừa vận chuyển, ta đã đưa vào chiến trường 10.100 tấn đạn, 2.300 tấn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, 2.600 tấn xăng dầu… Nhiều trạm sửa chữa ô tô, sửa chữa pháo và tăng được bố trí dọc đường, phục vụ cơ động của chiến dịch. Trong giai đoạn cuối cùng của chiến tranh, nổi lên tác dụng to lớn của hậu cần tại chỗ. Trục đường 14 từ Đồng Xoài đi Cây Gáo, Bến Bầu được gấp rút thi công. Các đoàn quân hậu cần ở các hướng củng cố và mở rộng tuyến đường chiến dịch với tổng chiều dài hơn 3.000 ki-lô-mét. Đặc biệt, trong những ngày hạ tuần tháng 4, hậu cần Miền đã đưa 10.000 cán bộ, chiến sĩ từ tuyến sau lên thành lập 8 tiểu đoàn cơ động, huy động gần 4.000 xe vận tải, hơn 600 thuyền máy, ca nô, hàng nghìn xe đạp thồ và hơn 60.000 dân công hỏa tuyến, lập 15 bệnh viện dã chiến, 17 đội điều trị với tổng số 10.000 giường, phục vụ bộ đội tiến công Sài Gòn – Gia Định.[6]
Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh khẩn trương hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến trên cơ sở phương án cũ đã được Trung ương Cục thông qua.
Thế trận tại chỗ đã bày xong. Ngày 22 tháng 4 năm 1975, lần cuối cùng, kế hoạch tiến công Sài Gòn – Gia Định được Đảng ủy và Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh thông qua và phê duyệt.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị họp, giữa lúc công việc chuẩn bị mọi mặt từ Bộ thống soái tối cao đến Bộ tư lệnh và các đơn vị ở chiến trường trọng điểm cơ bản đã hoàn thành. Năm mục tiêu quan trọng đã được Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh xác định là: sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, dinh Tổng thống ngụy quyền, Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát.
Sau khi kiểm tra lại lần cuối việc chuẩn bị cho trận đánh quyết định, cuộc họp kết thúc trong không khí náo nức, phấn khởi, quyết tâm, sẵn sàng đón tin chiến thắng.
Giờ phút quyết định đã điểm. Chiến trường Nam Bộ bùng lên như một cơn lốc.
Theo kế hoạch, 5 giờ 30 phút sáng 30 tháng 4 năm 1975, các hướng đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Đến 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng 390 đã húc tung cánh cổng chính của dinh Độc Lập – sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. 11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân đội Nhân dân Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh Độc Lập, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Cùng lúc này, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là Dương Văn Minh và toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn có mặt đầy đủ trong dinh Độc Lập đã bị quân giải phóng bắt sống. Tổng thống ngụy Dương Văn Minh đã phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trước quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Chiến tranh kết thúc.
Từ thủ đô Hà Nội, nhận được tin chiến thắng, thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã gửi ngay bức điện khen ngợi: “Toàn thể cán bộ, chiến sĩ tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào Sài Gòn – Gia Định thân mến. Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Sài Gòn – Gia Định, khen ngợi toàn thể cán bộ và chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên, thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội tinh nhuệ, dân quân tự vệ đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập chiến công chói lọi, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc ngụy quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn – Gia Định, đưa chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng. Toàn thể các đồng chí hãy nêu cao tinh thần quyết thắng cùng đồng bào tiếp tục tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu của Tổ quốc”.[7]
Vậy là sau 5 ngày chiến đấu liên tục (từ 26 đến 30/4/1975), chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành toàn thắng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thu về một mối.
Nếu tính từ ngày 4 tháng 3 năm 1975, khi quân ta bắt đầu nổ súng ở Playcu trong hoạt động nghi binh chiến lược giải phóng Tây Nguyên cho đến ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975, thì toàn bộ cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam đã diễn ra trong 55 ngày đêm, thật là một sự trùng hợp kỳ lạ với 55 năm ngày đêm của Chiến dịch Điện Biên Phủ cách đó 21 năm. Vậy là hai chiến dịch có hai cách đánh khác nhau. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, phương châm là “đánh chắc, tiến chắc”, thì trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, phương châm là “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Dù là hai cách đánh khác nhau nhưng đều đi đến thắng lợi cuối cùng đánh đổ hai thực dân đế quốc hùng mạnh nhất lúc bấy giờ là Pháp và Mỹ. Đó là minh chứng hùng hồn cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng; truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam; quyết không cam chịu làm nô lệ; quyết đánh đuổi giặc ngoại xâm giành độc lập tự do cho dân tộc.
Sự kiện chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã một lần nữa chứng minh chân lý bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.
Sức Mạnh Tổng Hợp Trong Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975 Giải Phóng Hoàn Toàn Miền Tây Nam Bộ
Miền Tây Nam bộ ngày nay, trong kháng chiến là địa bàn của Quân khu 8 và Quân khu 9 cũ, nằm ở vị trí cuối cùng phía Nam của Tổ quốc, xa sự chỉ đạo Trung ương. Đây là địa bàn đông dân, nhiều của, là trọng điểm bình định, mục tiêu thực hiện các chiến lược chiến tranh xâm lược của kẻ thù, nhằm chiếm đất, giành dân, đánh bật lực lượng cách mạng, tách Đảng ra khỏi dân để tiêu diệt. Để đạt được mục tiêu đó, địch tập trung nhiều lực lượng, vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, thực hiện nhiều thủ đoạn đánh phá ác liệt, khủng bố tàn sát dã man, đi đôi với chiến tranh tâm lý lừa mỵ, mua chuộc, bắt ép nhân dân vào các khu tập trung để kìm kẹp, khống chế… Xuất phát từ đặc điểm chiến trường và âm mưu thủ đoạn của địch, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đảng bộ, quân và dân miền Tây Nam bộ luôn phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự lực tự cường, tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân liên tục tiến công địch, giải phóng hoàn toàn địa phương, góp phần cùng cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Giao bưu vận đi công tác trên chiến trường miền Tây Nam bộ. (ảnh: tư liệu)
Tháng 3/1975, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Miền, với tinh thần chủ động, sáng tạo, Đảng bộ, quân và dân các địa phương Tây Nam bộ đã tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân với tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh hoạt động tiến công địch để phối hợp với chiến trường toàn Miền. Ngày 11/3/1975, Sư đoàn 8 (Quân khu 8) tiến công tiêu diệt yếu khu Ngã Sáu (Cái Bè) và đánh quân tăng viện tại kênh Bằng Lăng, tiêu diệt gọn Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 10, Sư đoàn 7 quân đội Sài Gòn. Đây là trận then chốt mở toang cửa ngõ cho khối chủ lực Quân khu tiến xuống áp sát thành phố Mỹ Tho. Sư đoàn 4 (Quân khu 9) hoạt động mạnh ở vùng ruột Hậu Giang, tiến công chi khu Hưng Long, đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch ở Vị Thanh, tạo điều kiện cho lực lượng chủ lực Quân khu áp sát thành phố Cần Thơ. Trung đoàn 3 ở Vĩnh Trà (Vĩnh Long, Trà Vinh – tiền phương của Quân khu 9) tiến công tiêu diệt yếu khu Thầy Phó, thu pháo 105 mm; giải phóng các xã lân cận, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng tuyến sông Măng Thít.
Chấp hành nghị quyết của Trung ương Cục, mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, đảng bộ, quân và dân các địa phương ở miền Tây Nam bộ nhanh chóng tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, triển khai thế trận tiến công và nổi dậy với nhiệm vụ cụ thể là: chia cắt chiến lược, cắt đứt và làm chủ lộ 4 (nay là Quốc lộ 1) các đoạn từ Long An – Mỹ Thuận, Vĩnh Long – Cần Thơ và cắt đứt hoàn toàn kênh Chợ Gạo, ngăn chặn không cho địch từ miền Tây lên chi viện cho Sài Gòn và không cho địch từ Sài Gòn thực hiện co cụm chiến lược về miền Tây Nam bộ. Sử dụng lực lượng Sư đoàn 4 tiến công khống chế, tiêu diệt sân bay Trà Nóc, phát triển đánh chiếm thành phố Cần Thơ. Tổ chức một cánh quân tiến công vào hướng Tây Nam Sài Gòn, đánh chiếm Tổng nha cảnh sát ngụy. Tích cực xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt, thực hành tổng tiến công và nổi dậy, theo phương châm “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”, giải phóng hoàn toàn miền Tây Nam bộ.
Thực hiện nhiệm vụ chia cắt chiến lược, cắt đứt lộ 4, đoạn từ Long An – Mỹ Thuận, theo sự chỉ đạo của Quân khu 8, Sư đoàn 8 chọn ngã ba Trung Lương, cửa ngõ thành phố Mỹ Tho, làm điểm đột phá chủ yếu, vừa cắt đứt lộ, vừa sẵn sàng đánh chiếm thành phố Mỹ Tho và căn cứ Sư đoàn 7 quân đội Sài Gòn ở Đồng Tâm. Từ đêm 26 rạng 27/4/1975, Trung đoàn 320 sử dụng 1 tiểu đoàn bố trí 3 chốt ở đoạn cầu Bến Chùa, 2 tiểu đoàn còn lại đứng ở Đông, Tây lộ 4, liên tục đánh địch phản kích để giữ chốt và cắt đứt hoàn toàn đoạn lộ này cho đến ngày 30/4/1975. Đoạn lộ 4 từ Long Định – Cai Lậy, Tiểu đoàn Ấp Bắc (Mỹ Tho) cùng 2 đại đội địa phương huyện Cai Lậy đã chốt chặn, kìm chân Trung đoàn 12, Sư đoàn 7 và 1 chi đoàn xe thiết giáp địch. Đoạn lộ từ Cai Lậy – An Hữu, Tiểu đoàn công binh 341 và Tiểu đoàn đặc công 283 của Quân khu cùng lực lượng huyện, xã phá đường, cắt đứt giao thông và kìm chân một trung đoàn địch.
Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, các lực lượng của tỉnh, huyện cùng quần chúng trên địa bàn được huy động tập trung tiến công mạnh mẽ trên mặt trận lộ 4. Địch buộc phải điều lực lượng đến đối phó, bỏ tuyến biên giới, bỏ trống các vùng nông thôn, rút lực lượng về phòng thủ lộ 4.
Ở đoạn lộ 4 từ Vĩnh Long – Cần Thơ, Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 9 giao cho Trung đoàn 1 và Trung đoàn 3 tập trung đánh cắt lộ 4; uy hiếp địch ở thành phố Cần Thơ từ phía bắc. Hai đơn vị này đã liên tục tiến công cắt đứt và làm chủ nhiều đoạn trên lộ 4. Đến 30/4/1975, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 3 tập trung lực lượng cùng bốn tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh tiến công đánh chiếm thị xã Vĩnh Long.
Trên kênh Chợ Gạo, tuyến vận tải nội địa nối liền miền Tây Nam bộ với Sài Gòn, là tuyến vận tải đường thủy quan trọng. Từ ngày 15/4/1975, Tiểu đoàn 514 và Tiểu đoàn 2009 (tỉnh Mỹ Tho) cùng hai đại đội binh chủng đánh thiệt hại nặng phân chi khu Quơn Long và Bình Phục Nhất, bức rút 9 đồn ở Tân Thuận Bình, bắn cháy 12 tàu địch và làm chủ một đoạn dài gần 10 km. Bộ đội tỉnh, bộ đội huyện, du kích xã và hàng ngàn quần chúng huyện Chợ Gạo tham gia làm vật cản căng dây cáp ngang kênh, cắt đứt giao thông và áp sát thị trấn Chợ Gạo.
Với tinh thần chủ động tiến công, quân và dân miền Tây Nam bộ đã huy động sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ quan trọng: chia cắt chiến lược, đánh chiếm, cắt đứt và làm chủ nhiều đoạn trên lộ 4 và kênh Chợ Gạo, ngăn chặn không cho địch từ miền Tây lên cứu nguy cho Sài Gòn và không cho địch từ Sài Gòn thực hiện co cụm chiến lược về miền Tây Nam bộ.
Đối với nhiệm vụ khống chế, tiêu diệt sân bay Trà Nóc, đêm 28/4/1975, Sư đoàn 4 vượt sông Cần Thơ qua lộ Vòng Cung, nhưng chỉ có Trung đoàn 20 qua được lộ Vòng Cung. Đêm 29/4/1975, Trung đoàn bám được vùng ven sân bay, vừa đánh địch phản kích, vừa dùng hỏa lực, kết hợp với hai chốt pháo của Quân khu khống chế hoàn toàn sân bay Trà Nóc, không cho máy bay địch cất cánh, hạ cánh. Trưa 30/4/1975, Trung đoàn 20 nhanh chóng đánh chiếm sân bay Trà Nóc, thu giữ nhiều máy bay còn nguyên vẹn cùng toàn bộ trang thiết bị tại sân bay.
Thực hiện nhiệm vụ tham gia đánh chiếm Sài Gòn từ phía Tây Nam, Quân khu 8 tổ chức một cánh quân gồm Trung đoàn 24, Trung đoàn 88 và hai tiểu đoàn địa phương của tỉnh Long An mở đường xuyên qua phía đông Long An tiến về hướng Nhà Bè, Quận 8. Với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, lực lượng ta vừa hành quân, vừa đánh địch để mở đường mà đi; vừa làm tốt công tác binh địch vận, vận động quần chúng; vừa bảo đảm kịp thời nổ súng tiến công cùng với các hướng khác. Sau 16 ngày đêm hành quân liên tiếp, được sự hỗ trợ, giúp đỡ của các địa phương trên đường hành quân, cánh quân này đã diệt 40 đồn bốt địch, giải phóng 20 xã, đến khu vực Bình Chánh (vùng ven Sài Gòn) vào ngày 25/4/1975. Lúc 10 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Trung đoàn 24 đánh chiếm mục tiêu chủ yếu: Tổng Nha Cảnh sát địch. Trung đoàn 88 và hai tiểu đoàn tỉnh Long An đánh chiếm khu kho Tân Thuận, Tổng kho xăng dầu, cảng Nhà Bè. Cánh quân của Quân khu 8 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ tiến công Sài Gòn từ hướng tây nam đúng thời gian quy định, hiệp đồng chặt chẽ với các cánh quân khác tham gia đánh chiếm Sài Gòn một cách nhanh gọn.
Đối với nhiệm vụ tự lực giải phóng địa phương, với tinh thần chủ động, hầu hết các tỉnh miền Tây Nam bộ đã huy động, tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, chuẩn bị sẵn sàng lực lượng áp sát thành phố, thị xã, thị trấn. Các tỉnh đều phát triển thêm lực lượng, mỗi tỉnh có từ 3 đến 4 tiểu đoàn trở lên; riêng tỉnh Cà Mau, lực lượng bộ đội địa phương tỉnh phát triển đến 12 tiểu đoàn, cấp huyện thành lập tiểu đoàn bộ đội địa phương, đưa lực lượng tham gia tiến công vào thị xã.
Ngày 26/4, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử bắt đầu. Cùng ngày, Khu ủy, Quân khu ủy Quân khu 8 và Quân khu 9 gửi thư động viên toàn thể lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị; kêu gọi các cấp, các đơn vị phải thấy rõ trách nhiệm lịch sử của mình, góp phần vào trận đánh lịch sử giải phóng Sài Gòn; đồng thời phải tự lực giải phóng tỉnh, huyện, xã mình. Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh hai quân khu phát động một cao trào huy động sức mạnh tổng hợp, tiến công mạnh mẽ, đều khắp ở tỉnh, huyện, xã với khí thế tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn địa phương. Mũi nổi dậy của quần chúng được các cấp ủy đảng chuẩn bị kế hoạch từ đầu tháng 4/1975. Ta đã đưa cán bộ nòng cốt vào trong nội ô thành phố, thị xã, thị trấn; nhanh chóng xây dựng và tổ chức lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận, phát động quần chúng hiệp đồng tiến công để giành thắng lợi trọn vẹn.
Thực hiện kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy, đêm 28 rạng 29/4/1975, các lực lượng của quân khu, tỉnh, huyện đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn. Phong trào nổi dậy của quần chúng diễn ra dưới nhiều hình thức sinh động từ thấp đến cao, góp phần làm cho hệ thống chính quyền địch ở cơ sở nhanh chóng tan rã.
Bộ đội chủ lực Quân khu 8 phối hợp với bộ đội địa phương bao vây, tiến công thành phố Mỹ Tho. Bộ đội chủ lực Quân khu 9 cùng địa phương tiến công thành phố Cần Thơ và thị xã Vĩnh Long. Trưa ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Tây Nam bộ được phát triển mạnh mẽ.
Trà Vinh là tỉnh được giải phóng sớm nhất ở miền Tây Nam bộ bằng tiến công quân sự kết hợp chặt chẽ với mũi nổi dậy của quần chúng. Từ 5 giờ ngày 30/4, lực lượng vũ trang tỉnh (5 tiểu đoàn bộ binh, 2 đại đội đặc công, đại đội trợ chiến) đã đánh chiếm nhiều mục tiêu trong thị xã. Đến 9 giờ cùng ngày, lực lượng khởi nghĩa xuống đường, treo băng cờ, khẩu hiệu, khoảng 20.000 quần chúng tham gia tiến công, bao vây quân địch, tước vũ khí các tiểu đoàn bảo an, truy bắt bọn ác ôn. Chị em phụ nữ và sư sãi vận động được 60 binh lính địch ở sân bay ra đầu hàng. Lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ Mặt trận dân tộc giải phóng được tung bay trên nóc dinh Tỉnh trưởng Vĩnh Bình (Trà Vinh).
Thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu được giải phóng chủ yếu bằng lực lượng chính trị và binh vận. Từ ngày 28/4, một bộ phận lực lượng vũ trang và cán bộ chỉ đạo khởi nghĩa vào thị xã hướng dẫn quần chúng các phường, khóm tác động lực lượng địch ở cơ sở. Lực lượng ta tổ chức liên lạc với Tỉnh trưởng Bạc Liêu, yêu cầu bàn giao chính quyền cho cách mạng. Ngày 29/4, Tỉnh trưởng Bạc Liêu hứa sẽ bàn giao chính quyền, nhưng vì chưa có lệnh cấp trên và còn phải thuyết phục cấp dưới, nên đề nghị ta cho thêm thời gian; đồng thời giao cho ta một xe Jeep để làm phương tiện đi lại. Sáng ngày 30/4, ta cắm cờ Mặt trận trên xe, chạy thẳng vào Dinh Tỉnh trưởng. Đông đảo quần chúng hưởng ứng tập trung tại Dinh Tỉnh trưởng, buộc Tỉnh trưởng Bạc Liêu tuyên bố đầu hàng, bàn giao chính quyền cho cách mạng vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975.
Tại thành phố Mỹ Tho (trọng điểm của Quân khu 8), lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Đội biệt động thành phố và cơ sở mật phát động quần chúng nổi dậy. 16 giờ ngày 30/4, cờ giải phóng được treo tại Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu. Lực lượng chủ lực quân khu và bộ đội tỉnh tiếp tục tiến công các mục tiêu địch còn ngoan cố chống cự trong thành phố. Đến 24 giờ ngày 30/4/1975, Trung đoàn 1 của Sư đoàn 8, Tiểu đoàn đặc công 269 cùng hai tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh và lực lượng thành phố chiếm Dinh Tỉnh trưởng. 5 giờ sáng ngày 1/5/1975, thành phố Mỹ Tho được hoàn toàn giải phóng.
Ở thành phố Cần Thơ (trọng điểm 1 của Quân khu 9) – nơi có cơ quan đầu não của Quân đoàn 4 – Quân khu 4 Việt Nam Cộng hòa, Quân khu tập trung lực lượng chủ lực, kết hợp với lực lượng nổi dậy của quần chúng, liên tục tiến công từ đêm 29/4/1975. Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Ban Chỉ huy khởi nghĩa nội thành đã nhạy bén, kịp thời chớp thời cơ, truyền lệnh khởi nghĩa. Các cơ sở đảng trong nội ô phát động quần chúng nổi dậy. Lực lượng cán bộ vào trước cùng với cơ sở quần chúng tại chỗ nổi dậy giành chính quyền, làm chủ phường, khóm. Cùng lúc, chủ lực quân khu và lực lượng bộ đội địa phương tiến công mạnh mẽ các mục tiêu của địch trong thành phố. Trước tình hình hỗn loạn, quân lính tan rã, quần chúng nổi dậy rầm rộ, hầu hết các mục tiêu trong thành phố bị ta đánh chiếm, tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 – Quân khu 4 Việt Nam Cộng hòa buộc phải tuyên bố đầu hàng vào lúc 15 giờ ngày 30/4/1975.
Tại thị xã Vĩnh Long (trọng điểm 2 của Quân khu 9), chiều 30/4/1975, lực lượng ta đã chiếm các mục tiêu quan trọng trong nội ô thị xã. Ta kêu gọi Tỉnh trưởng và Trung đoàn trưởng Trung đoàn 16 Sư đoàn 9 địch đầu hàng (lúc này trong nội ô thị xã, Thị xã ủy lãnh đạo quần chúng nổi dậy diệt đồn, phá rã phòng vệ dân sự). Thấy tình hình không thể cứu vãn nổi và không chỉ huy được các chi khu, Tỉnh trưởng Vĩnh Long buộc phải đầu hàng. Lúc 23 giờ ngày 30/4/1975, lực lượng ta tiến vào tiếp quản, làm chủ hoàn toàn thị xã.
Dù ở xa đất liền, nhưng với tinh thần chủ động, khi được tin Dương Văn Minh đầu hàng, Huyện ủy và Huyện đội Phú Quốc kịp thời huy động lực lượng tại chỗ, áp sát tiến công các đồn bốt địch. 16 giờ ngày 30/4, lực lượng ta tiến vào chiếm lĩnh thị trấn Dương Đông. Sau đó, tiếp tục tiến công giải phóng hoàn toàn các mục tiêu trên đảo. Bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân và lực lượng của chính mình, huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang) tự giải phóng vào lúc 20 giờ ngày 30/4.
Ở Côn Đảo (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Sóc Trăng, Quân khu 9), là đặc khu của chính quyền Sài Gòn. Trên đảo, địch xây dựng 8 trại giam, có 1 tiểu đoàn bảo an và 1 đại đội cảnh sát canh giữ. Nơi đây, tính đến năm 1975, địch giam giữ trên 7.000 người, trong đó có khoảng 4.000 tù chính trị. Ngày 30/4, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, địch trên đảo tháo chạy hỗn loạn đến. Lúc 1 giờ ngày 1/5 một nhóm công chức, giám thị… vào trại 7 mở cửa một phòng tại khu H, báo tin Sài Gòn giải phóng. Anh em tù chính trị nhanh chóng mở cửa trại, đục tường ra ngoài. Các đồng chí lãnh đạo trại 7 nhanh chóng họp, đề ra chương trình hành động. Đến 18 giờ ngày 1/5, lượng nổi dậy của tù chính trị phá xà lim, làm chủ Côn Đảo. Đêm 2/5, trạm vô tuyến trên đảo bắt được liên lạc với đất liền, báo tin Côn Đảo hoàn toàn giải phóng.
Bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, hầu hết các tỉnh khác trên khắp miền Tây Nam bộ, từ tinh thần chủ động, với sức mạnh tổng hợp và lực lượng của chính mình, quân và dân ta đã đồng loạt tiến công địch từ ngày 26/4/1975, phối hợp tiến công và nổi dậy, tự lực giải phóng hoàn toàn địa phương trong ngày 30/4 và 1/5/1975.
Riêng tại tỉnh Long Châu Tiền (gồm một số huyện của tỉnh Đồng Tháp và tỉnh An Giang ngày nay), Tiểu khu trưởng Sa Đéc, Tiểu khu trưởng Châu Đốc và một số sỹ quan Việt Nam Cộng hòa đã tập hợp trên 10.000 lính bảo an từ các nơi dồn về Tổ Đình ở xã Hòa Hảo (huyện Phú Tân) tuyên bố tử thủ. Trong hai ngày 1 và 2/5/1975, chúng ra thông báo gửi tín đồ Hòa Hảo và binh sĩ đòi thành lập khu tự trị của đạo Hòa Hảo ở tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc. Sau đó, chúng đòi lập khu tự trị ở huyện Phú Tân. Đến thông báo thứ 5, chúng đòi giữ một trung đội bảo an để bảo vệ Tổ Đình. Đêm 2/5, lực lượng ta đến Tổ Đình, phát động quần chúng tín đồ Hòa Hảo nổi dậy cùng lực lượng vũ trang vây ép và sẵn sàng tiêu diệt các tiểu đoàn bảo an ngoan cố, hỗ trợ quần chúng tín đồ trực tiếp đấu tranh với Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Với lý lẽ sắc bén và thái độ cương quyết của lực lượng cách mạng, cuối cùng chúng phải ra thông báo số 6 kêu gọi binh sĩ nộp vũ khí, trình diện với cách mạng. 7 giờ ngày 3/5, lực lượng ta vào Tổ Đình, tiếp nhận bàn giao vũ khí của hơn 8.000 lính bảo an. Thái độ đúng đắn của cán bộ, chiến sĩ ta nhanh chóng giải tỏa sự lo sợ sự trả thù theo luận điệu chiến tranh tâm lý của địch. Trước sự chứng kiến của quần chúng, ta tổ chức khui 6 hầm vũ khí chôn giấu trong trụ sở Giáo hội. Vùng Tổ Đình Hòa Hảo được giải phóng.
Sau khi Tổ Đình được giải phóng, một số tàn quân của bảo an tiếp tục co cụm về Chợ Mới, tập trung tại chùa Tây An, coi đây là nơi tử thủ cuối cùng. Tỉnh Sa Đéc điều động lực lượng đến và phát động quần chúng bao vây, tiến công làm tan rã đám tàn quân ở chùa Tây An. Ngày 6/5/1975, cờ giải phóng tung bay trên chùa Tây An, mảnh đất cuối cùng của miền Tây Nam bộ được hoàn toàn giải phóng.
Quân giải phóng tiến vào thị xã Bạc Liêu. (ảnh: tư liệu)
Trong khi đó, tại Sở Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh Miền cũng đã chuẩn bị sẵn sàng một lực lượng xe tăng, pháo binh, cao xạ để sau khi giải phóng Sài Gòn, sẽ chi viện cho Quân khu 8 và Quân khu 9, nhằm nhanh chóng đập tan quân địch còn ngoan cố chống cự. Nhưng trên thực tế, với tinh thần chủ động, sáng tạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trong thực hành Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, quân và dân miền Tây Nam bộ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong trận quyết chiến chiến lược, góp phần xứng đáng vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bằng lực lượng của chính mình, dựa vào thế trận chung của toàn Miền, đặc biệt là sức tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, quân và dân miền Tây Nam bộ đã tự lực giải phóng địa phương, không chờ đợi trên chi viện, mà còn vinh dự tham gia một hướng tiến công giải phóng Sài Gòn. Có thể nói, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi trọn vẹn trong mùa Xuân đại thắng 1975 ở miền Tây Nam bộ.
Bạn đang xem bài viết Phương Châm “Thần Tốc, Táo Bạo, Bất Ngờ, Chắc Thắng” Trong Tổng Tiến Công Mùa Xuân 1975 trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!