Cập nhật thông tin chi tiết về Quyết Tâm Và Chiến Lược Của Đảng Trong Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Tổ Quốc mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cách đây vừa tròn 45 năm, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, quân và dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng 30-4-1975 là một đỉnh cao của truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, là thắng lợi của tinh thần, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam được kết tinh trong đường lối chiến tranh nhân dân sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là kết quả của hàng chục năm chiến đấu kiên cường của nhân dân hai miền Nam – Bắc. Kỷ niệm 45 năm chiến thắng 30-4 là dịp để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ôn lại quá khứ vẻ vang, hiểu rõ sự đúng đắn trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là quyết tâm chiến lược của Đảng: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như đúc rút bài học lịch sử đối với công cuộc đổi mới hiện nay.
Người dân Sài Gòn ngợp cờ hoa, biểu ngữ vui mừng trước chiến thắng ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như chúng ta đã biết, ngày 27-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (Hiệp định Pari) được kí kết, ghi nhận thắng lợi cơ bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Đế quốc Mỹ buộc phải rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam vào ngày 29-3-1975, song Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng quân đội Sài Gòn (quân ngụy) làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Vì vậy, Trung ương Đảng đã chỉ rõ “ký Hiệp định Pari là nhằm đuổi Mỹ ra khỏi miền Nam, thắng địch một bước căn bản, tạo điều kiện để tiến lên hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”(1).
Hội nghị Thường vụ Trung ương Cục mở rộng (từ 28 đến 30-7-1973) nhận định: Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari. “Lúc này, chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn… đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ… Ngoài thời cơ này không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được phục hồi… thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng”(2).
Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976: Năm 1975 tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp; năm 1976 tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngoài ra, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án quan trọng trong kế hoạch năm 1975 là: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, chiến trường Tây Nguyên được chọn làm hướng tiến công chủ yếu của cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975, với trận then chốt mở màn là đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Chỉ sau không đầy hai ngày chiến đấu, đến 10 giờ 30 ngày 11-3-1975, quân ta giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột. Chiến thắng Buôn Ma Thuột là đòn phủ đầu điểm trúng huyệt kẻ thù, làm cho Kon Tum, Plâyku bị cô lập, toàn bộ hệ thống phòng ngự chiến lược của địch ở Tây Nguyên bị rung chuyển mạnh. “Trước tình hình ta thắng lớn ở Tây Nguyên, trong cuộc họp ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975”(4).
Trước đà thắng lợi của ta ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị họp và khẳng định: Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam. Đồng thời Bộ Chính trị đề ra chủ trương: “Nắm vững thời cơ chiến lược tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa”(5). Ngày 29-3-1975, Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ 15 đã ra Nghị quyết đặc biệt, trong đó nhấn mạnh: Nhiệm vụ trực tiếp khẩn cấp lúc này là: “Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung cao nhất mọi sức mạnh tổng hợp ba mũi giáp công, ba thứ quân, ba vùng, vùng lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhanh chóng đánh sụp đổ toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, giành lại toàn bộ chính quyền về tay nhân dân với khí thế tấn công quyết liệt, thần tốc, táo bạo và quyết giành toàn thắng, giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam”(6).
Với sự hiệp đồng binh chủng kết hợp với cuộc nổi dậy quy mô lớn của nhân dân thành phố Đà Nẵng, chỉ trong vòng 32 giờ ta đã tiêu diệt hơn 10 vạn địch, thu toàn bộ vũ khí, giải phóng Đà Nẵng vào ngày 29-3-1975. Chiến dịch Huế – Đà Nẵng đại thắng đưa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tiến lên một bước mới. Tại cuộc họp ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng tư năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang suy sụp”(7). Ngày 1-4-1975, căn cứ vào sự phát triển, tiến công dồn dập như vũ bão của ta trên chiến trường, Bộ Chính trị lại tiếp tục bổ sung quyết tâm chiến lược “giải phóng miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975 trước mùa mưa, không thể để chậm”(8). Từ đầu tháng 4-1975, cả dân tộc Việt Nam ra quân như trẩy hội trên mọi nẻo đường của đất nước, từ miền Bắc, hàng đoàn xe ngày đêm hối hả nối đuôi nhau vượt cung, vượt trạm đưa người và hàng ra tiền tuyến.
Trên cơ sở đánh giá tình hình ta và địch trên chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị nhận định: Lực lượng quân sự, lực lượng chính trị và thế chiến lược của ta đã hoàn toàn áp đảo quân địch. Quân ngụy đang đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Mỹ hoàn toàn bất lực, dù có can thiệp cũng không cứu vãn nổi quân ngụy. Thời cơ đã chín muồi để quân và dân ta mở trận quyết chiến lịch sử đánh thẳng vào Sài Gòn đánh đổ toàn bộ ngụy quyền, giành thắng lợi hoàn toàn đã tới. 17 giờ ngày 14-4-1975, trong bức điện số 37 TK gửi mặt trận, “Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”(9).
Đúng 17 giờ ngày 26-4, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch, từ năm hướng, các quân đoàn lần lượt tấn công Sài Gòn. Từ 26-4 đến 28-4, ta chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài(10), xiết chặt vòng vây quanh Sài Gòn. Chiều 27-4, Mỹ buộc Trần Văn Hương từ chức, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng thống ngụy nhằm thương lượng với ta hòng cứu vãn chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Chỉ thị: “Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng”(11). Năm cánh quân của ta như vành đai thiết chặt cổ họng ngụy quyền Sài Gòn, thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Hàng vạn nhân dân thành phố Sài Gòn đã đổ xuống đường tham gia bắt tề điệp, truy lung ác ôn, chỉ đường cho bộ đội tiêu diệt hang ổ cuối cùng của địch.
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng đã tung bay trên nóc phủ Tổng thống ngụy, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. Sài Gòn – Gia Định được giải phóng tạo điều kiện cho quân và dân ta ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi. Đất nước ta được thống nhất, non song thu về một mối, Bắc Nam liền một dải, đồng bào Nam Bắc được sum họp một nhà. Thắng lợi to lớn đó đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá tầm vóc thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đại hội IV của Đảng nhấn mạnh: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của ch ủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” .
Trong 90 năm từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ đặc biệt trong lịch sử dân tộc, có những thời điểm cam go, có ý nghĩa sống còn nhưng Đảng đều lãnh đạo đất nước vượt qua. “Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam… Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác…”(13).
Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trải qua gần 35 năm và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; văn hóa, xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, chính trị – xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao… “Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”(14). Tuy nhiên, đ ể bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, trong bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta phải coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là việc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân… coi đây là nhiệm vụ sống còn của Đảng nhằm xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
1,2,3- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004, t.36, tr.188, tr.178-179, tr.85.
4,8- Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước – thắng lợi và bài học,
Nxb Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.99.
5- Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam ( 1954-1975), sđd, tr.1076.
6,7- Sđd, tr.1076, tr.95-96.
9,11- Sđd, t.36, tr.109, tr.176.
10- Long Thành, Biên Hòa (phía Đông), Tân An, Bình Chánh (phía Nam), Đông Dù, Củ Chi (phía Bắc).
12- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 471.
13, 14, 15-Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2020).
PGS,TS Nguyễn Thị Thanh
Cảm Nhận Về Ngày Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Tổ Quốc
Cách đây 45 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, non sông thu về một mối. Về sự kiện lịch sử vĩ đại này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (diễn ra từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ của Quân Giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu thời khắc lịch sử kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi, đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, thế hệ trẻ chúng tôi luôn cảm thấy rất tự hào về sự nghiệp cách mạng vĩ đại của đất nước. Tự trong đáy lòng mình, chúng tôi rất biết ơn những công lao trời biển của thế hệ những người đi trước họ đã dành trọn cả thanh xuân, cả cuộc đời của mình để phụng sự cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Chiến thắng 30 tháng 4 là mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, là chiến thắng của nội lực Việt Nam, của truyền thống văn hóa dân tộc, là những công lao trời biển Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo tài tình của Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh chống lại kẻ thù lớn nhất của dân tộc.
Là công dân Việt Nam, thế hệ trẻ của đất nước chúng tôi ý thức được rằng những đau thương mất mát, sự hy sinh thầm lặng của các thế hệ cha anh đã cho chúng tôi có được cuộc sống hòa bình ấm no như ngày hôm nay là vô bờ bến. Hơn ai hết chúng tôi rất quý trọng cuộc sống hòa bình ngày hôm nay và ý thức được trách nhiệm của mình là phải giữ gìn truyền thống cách mạng của dân tộc, phấn đấu nỗ lực để góp phần xây dựng đất nước thêm giàu mạnh, văn minh.
Trân trọng những thành quả có được sau hơn 30 năm đất nước đổi mới trong bối cảnh đất nước hòa bình, xã hội ổn định. Tinh thần chiến thắng 30/4 đang cổ vũ tôi và đồng nghiệp của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hôm nay. Là một viên chức làm việc trong môi trường chính trị, bản thân tôi luôn ý thức được trách nhiệm của mình là phải giữ gìn, phát huy sự nghiệp cách mạng vĩ đại của đất nước, bản thân mỗi cá nhân phải:
Thứ nhất, phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Bản thân luôn rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có niềm tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng.
Thứ hai, bản thân luôn tích cực học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, luôn nỗ lực hết mình, đem tất cả tinh thần, trí tuệ, sức trẻ, lòng nhiệt huyết, tài năng và sự sáng tạo của mình để viết tiếp nên trang sử hào hùng của dân tộc, làm nên những thành công mới trong cuộc hành trình xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam tươi đẹp.
Thứ ba, luôn đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, tránh những biểu hiện “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” trong nội bộ, nâng cao trách nhiệm của bản thân, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao ý thức tự lực, tự cường, kiên gan, bền chí trước âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng tôi mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng tôi càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, tin vào tinh thần quật cường bất khuất và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người dân Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ chúng tôi nói riêng nguyện tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh theo đường lối, chủ trương của Đảng đề ra./.
Câu lạc bộ Lý luận trẻ tỉnh Bến Tre
Chiến Dịch Hồ Chí Minh Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Đất Nước
Tác giả: Biên soạn: Lê Hải Triều ch.b, Nguyễn Đức Hùng,Võ Tá Tao,…..
Khổ: 19x27cm , 486 trang
Nxb: Quân đội nhân dân
Số ĐKCB: VL.002685
Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước / Biên soạn: Lê Hải Triều ch.b, Nguyễn Đức Hùng,Võ Tá Tao,….. – H. : Quân đội nhân dân, 2005. – 486tr. ; 27cm.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là một trong ba đòn tiến công chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Sau hai đòn tiến công và bằng hai chiến dịch Tây Nguyên và Huế – Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh là đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh là thắng lợi vĩ đại nhất, kết thúc 30 năm chiến tranh lâu dài, gian khổ, chống ngoại xâm của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Chiến dịch thắng lợi trong thời gian ngắn, ta đã thu được toàn bộ vũ khí kỹ thuật hiện đại, căn cứ, kho tàng của địch. Nhân dân trong khu vực chiến dịch hầu như không bị tổn thất, cơ sở vật chất về quân sự, kinh tế, xã hội có tác dụng hết sức to lớn cho công cuộc xây dựng đất nước, trang bị cho quân đội sau này. Cuốn sách “Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền nam, thống nhất đất nước” do nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 2005, giới thiệu cho người đọc thấy được con đường dẫn tới Chiến dịch Hồ Chí Minh; Diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh; các Đơn vị Anh hùng và Anh hùng được tuyên dương trong trong chiến dịch Hồ Chí Minh… Qua đó thấy được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta để đi tới toàn thắng. Thư viện Quảng Ninh xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! Đào Thu
Giải Phóng Hoàn Toàn Miền Nam, Giành Toàn Vẹn Lãnh Thổ Tổ Quốc…
1.Chủ trương, kế hoạch giải phóng miền Nam
Cuối năm 1974-đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976.
Nhưng Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Bộ chính trị cũng nhấn mạnh sự cần thiết tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa v.v…giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Hình 78. Bộ Chính trị họp Hội nghị mở rộng quyết định kế hoạch giải phóng miền Nam
2.Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã diễn ra trong gần hai tháng (từ ngày 4-3 đến ngày 2-5) qua ba chiến dịch lớn: Tây Nguyên, Huế-Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn.
a)Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến ngày 24-3)
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng, cả ta và địch đều cố nắm giữ. Nhưng do nhận định sai hướng tiến công của quân ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng, bố phòng sơ hở. Căn cứ vào đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975.
Hình 79. Lược đồ diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Thực hiện kế hoạch, ta tập trung chủ lực mạnh với vũ khí, kĩ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Trận then chốt mở màn ở Buôn Ma Thuột ngày 10-3-1975 đã giành thắng lợi (trước đó ngày 4-3 quân ta đánh nghi binh ở Plâyku và KonTum nhằm thu hút quân địch vào hướng đó). Ngày 12-3-1975, địch phản động chiếm lại Buôn Ma Thuột, nhưng không thành.
Sau thất bại ở Buôn Ma Thuột, hệ thống phòng chủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn.
Ngày 14-3-1975, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút toàn bộ quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đến ngày 24-3-1975, Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn được giải phóng.
Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước sang giai đoạn mới: từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
b)Chiến lược Huế-Đà Nẵng (từ ngày 21-3 đến ngày 29-3)
Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh và hết sức thuận lợi ngay khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiếp diễn, Bộ Chính trị có quyết định kịp thời kế hoạch giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, trước tiên là tiến hành chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng.
Phát hiện địch co dụm ở Huế, ngày 21-3, quân ta đánh thẳng vào căn cứ địch, chặn các đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây trong thành phố. Đúng 10 giờ 30 phút ngày 25-3, quân ta tiến vào cố đô Huế, đến hôm sau (26-3) thì giải phóng thành phố và toàn tỉnh Thừa Thiên.
Hình 80. Quân ta tiến vào giải phóng cố đô Huế
Cùng thời gian giải phóng Huế, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kì, Quảng Ngãi, Chu Lai v.v..tạo thêm một hướng uy hiếp Đà Nẵng từ phía nam.
Đà Nẵng, thành phố lướn thứ hai ở miền Nam, căn cứ quân sự liên hợp nhất của Mĩ và quân đội Sài Gòn, rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn địch bị dồn về đây trở nên hỗn loạn, mất hết khả năng chiến đấu. Sáng 29-3, quân ta từ ba phía bắc, tây, nam tiến thẳng vào thành phố, đến 3 giờ chiều thì giải phóng toàn bộ Đà Nẵng.
Hình 81. Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, Xuân 1975
Từ cuối tháng 3 đến đầu thắng 4, nhân dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây Nguyên và một số tỉnh ở Nam Bộ, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương và quân chủ lực, đã nổi dậy đánh địch, giành quyền làm chủ. Các đảo biển miền Trung cũng lần lượt được giải phóng.
c) Chiến dịch Hồ CHí Minh (từ ngày 26-4 đến ngày 30-4)
Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”; Từ đó đi đến quyết định :”Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kĩ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5-1975)” ; chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Trước khi chiến dịch giải phóng Sài Gòn, quân ta tiến công Xuân Lộc và Phan Rang-những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.Trước việc tuyến phòng thủ bị chọc thủng (Phan Rang ngày 16-4, Xuân Lộc ngày 21-4) và Phnôm Pênh (thủ đô của Campuchia) giải phóng (17-4), nội bộ Mĩ và chính quyền Sài Gòn càng thêm hoảng loạn. Ngày 21-4, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức Tổng thống Chính phủ Sài Gòn.
17 giờ ngày 26-4, quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Năm cánh quân vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào trung tâm Sài Gòn đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng.
10 giờ 45 phút ngày 30-4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các Sài Gòn, Dương Văn Minh, vừa lên giữ chức Tổng thống ngày 28-4, đã phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên đỉnh Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Hình 82. Xe tăng quân ta tiến vào Dinh Độc Lập (30-4-1975)
Hình 83. Dinh Độc Lập trong ngày Sài Gòn giải phóng
Sau khi giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại ở miền Nam thừa thắng nhất tề đứng lên tiến công và nổi dậy, theo phương thức “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”. Đến ngày 2-5 Châu Đốc là tỉnh cuối cùng được giải phóng.
Bạn đang xem bài viết Quyết Tâm Và Chiến Lược Của Đảng Trong Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Tổ Quốc trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!