Xem Nhiều 3/2023 #️ Skkn Rèn Luyện Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2 # Top 4 Trend | Caffebenevietnam.com

Xem Nhiều 3/2023 # Skkn Rèn Luyện Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2 # Top 4 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Rèn Luyện Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2 mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của môn Toán trong trường tiểu học. Bậc tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn Toán cũng như những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát tiển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp của con người. Môn Toán ở trường tiểu học là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của trẻ. Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiêm cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận lô gíc, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Để góp phần tạo ra những con người thông minh, sáng tạo, giàu ý chí và nghị lực, vững tin vào bàn tay, khối óc của mình, người thầy giáo phải coi trọng việc rèn luyện kĩ năng tư duy độc lập cho học sinh qua các môn học nói chung, qua môn toán nói riêng và đặc biệt là qua học giải toán có lời văn. 2. Xuất phát từ ý nghĩ của việc dạy giải toán có lời văn. Giải toán là mạch kiến thức hết sức quan trọng, chính vì thế, nó được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác của môn toán ở bậc tiểu học. Giải toán ở bậc tiểu học giúp học sinh vừa thực hiện nhiệm vụ củng cố kiến thức toán học đã lĩnh hội, đồng thời vận dụng kiến thức ấy vào giải các bài toán gắn với tình huống thực tiễn. Qua giải toán tạo điều kiện giúp các em phát triển trí thông minh tư duy độc lập, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết), cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng cho các em, góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt sáng tạo. Đối với học sinh lớp Hai, các em mới làm quen với giải toán có lời văn (các em đã được học ở lớp Một nhưng rất ít) nên người thầy phải hết sức chú trọng để trang bị cho các em một số kiến thức và kĩ năng cơ bản trong giải toán để các em có thể học tốt hơn môn toán. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã nghiên cứu tài liệu, học hỏi, tham khảo bạn bè đồng nghiệp và qua thực tế giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc “Rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2” và đã viết nên đề tài này. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. – Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp dùng để giảng dạy toán có lời văn. – Tìm hiểu những kĩ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. – Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành các kiến thức đã học; rèn luyện kỹ năng tính toán là bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. – Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khơi gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. – Rèn luyện cho học sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như: tư duy, cẩn thận, nhanh nhẹn, cụ thể….. – Khảo sát và hướng dẫn cụ thể một số bài toán giải, một số dạng toán có lời văn ở lớp 2, để từ đó đúc rút kinh nghiệm cho bản thân, và đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. – Đối tượng: Học sinh lớp 2B, Trường Tiểu học……. – Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2016 đến tháng 2/2017 VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. a. Phương pháp quan sát: Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn Toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 2, việc sử dụng đồ dùng trực quan nhiều hơn. Ví dụ: Khi dạy giải toán ở lớp 2, giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau đó hướng dẫn các em lập tóm tắt đề bài rồi mới đến bước chọn phép tính. b. Phương pháp điều tra, khảo sát: Điều tra, khảo sát khả năng giải toán có lời văn của học sinh khối lớp 2 Trường Tiểu học……. c. Phương pháp phân tích, đàm thoại: Đây là phương pháp cần thiết và thích hợp với học sinh ở tiểu học, rèn luyện cho học cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh. Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần lựa chọn hệ thống câu hỏi chính xác và rõ ràng, nhờ thế mà học sinh có thể nắm được ngay nội dung kiến thức từ đầu và giúp các em dễ dàng trả lời các câu hỏi. d. Phương pháp thực hành và luyện tập: Sử dụng phương pháp này thực hành luyện tập kiến thức, kĩ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp. Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: Gợi mở, vấn đáp và giảng giải minh hoạ. PHẦN 2. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Dạy học toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn, đa dạng, phong phú, những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Mạch kiến thức giải toán có lời văn được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác trong môn Toán lớp 2. giải toán có lời văn giúp học sinh vừa thực hiện nhiệm vụ củng cố kiến thức toán học đã lĩnh hội đồng thời vận dụng kiến thức ấy vào giải các bài toán gắn liền với tình huống thực tiễn. Học sinh tự giải được các bài toán có lời văn là một yêu cầu cơ bản của dạy toán học. Vì vậy, việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh tiểu học có vai trò hết sức quan trọng trong việc dạy học toán. Nhờ giải toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Vì vậy giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác: Xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa các đã cho với cái cần tìm, trên cơ sở đó chọn được phép tính thích hợp và trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Dạy học giải toán giúp học sinh tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra các quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Như vậy đây là một loại toán khó đối với học sinh tiểu học bởi ở lứa tuổi này các em chưa tiếp xúc nhiều với cuộc sống, bản chất của các em còn rất hồn nhiên và ngây thơ, sự chú ý của các em còn hướng ra bên ngoài chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy, vào trí nhớ lô gíc, trí nhớ máy móc cũng dễ dàng đối với các hiện tượng hình ảnh cụ thể hơn là các câu chữ trừu tượng, khô khan. Để giúp học sinh giải toán có lời văn theo hướng tích cực giáo viên cần giúp học sinh tự mình tìm hiểu được các mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả mối quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải của bài toàn. Để đạt được mục tiêu trên, giáo viên phải thực hiện được các yêu cầu sau: Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ…(chuẩn bị cho học sinh giải toán). Tổ chức cho học sinh thực hiện giải toán. Tổ chức rèn kĩ năng giải toán. Rèn luyện năng lực khái quát hóa giải toán. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Qua thực tế dạy học từ Trường Tiểu học, bằng việc dự giờ, thăm lớp, trao đổi giờ dạy và rút ra kinh nghiệm giờ dạy của các đồng nghiệp cho thấy. 1. Về phía giáo viên Đa số giáo viên đã biết hướng dẫn cho học sinh nắm bắt được cách giải bài toán có lời văn theo các bước giải nhưng thống nhất theo một trình tự chặt chẽ, đôi lúc làm tắt, bỏ qua một số bước ( Ví dụ: không cho hoc sinh tóm tắt bài toán, không cho học sinh xác định dạng bài, kiểu bài…) Một bộ phận giáo viên chưa linh hoạt trong cách hướng dẫn học sinh giải bài toán, chưa biết cách hướng dẫn học sinh khai thác đề bài để định hướng cách làm bài 2. Về phía học sinh Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, đa số các em là thích học toán nhưng lại rất ngại những bài toán có lời văn vì đối với dạng bài này bắt buộc các em phải tư duy, trình bày nhiều hơn. Mặt khác, vì mới học lớp 2 nên vốn ngôn ngữ của các em còn hạn chế, đầu năm học có em còn đọc chưa thạo, có em đọc được nhưng còn chưa hiểu vì vậy khi giải các bài toán có lời văn, lời giải chưa gọn, có khi còn thiếu chính xác, chưa liên hệ được những điều đã biết, điều cần tìm trong bài để có phép tính đúng. Khảo sát chất lượng: Đầu năm, sau khi nhận lớp, tôi bắt tay ngay về tìm hiểu đối tượng học sinh, tôi nhận thấy lớp 2B các em có lực học khá đồng đều, nhưng đối với giải toán có lời văn các em vẫn còn hơi yếu: Kết quả khảo sát đầu năm: Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 21 SL TL SL TL SL TL 10 47,6% 8 38% 3 14,4% Trong đó đối với bài toán giải: Số học sinh sai về lời giải là 5 em = 23,8% Số học sinh sai về phép tính là 8 em = 38% Số học sinh sai về đơn vị là 3 em = 14,4% Nguyên nhân: Sau khi khảo sát, tìm hiểu thực tiễn tôi thấy có những nguyên nhân như sau: 1. Do học sinh không đọc kĩ đề bài nên không nắm vững được những điều đã biết, những điều cần tìm trong bài toán dẫn đến chưa định hướng được cách làm bài. 2. Học sinh chưa biết cách tóm tắt bài toán. 3. Học sinh không nắm vững câu hỏi của bài nên không xác định được dạng bài. 4. Có học sinh không biết dựa vào câu hỏi để tìm lời giải. 5. Có học sinh chưa nắm vững cách trình bày bài giải. 6. Học sinh không có thói quen kiểm tra lại bài sau khi làm bài xong. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 A. Các bước thực hiện giải bài toán có lời văn: Khi hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn, GV phải giúp học sinh tự mình tìm hiểu mối quan hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm, mô tả quan hệ đó bằng tóm tắt bài toán, bằng câu lời giải, bằng phép tính cụ thể. Xuất phát từ định hướng trên, khi dạy các bài toán có lời văn tôi tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán cụ thể như sau: 1. Đọc và tìm hiểu bài toán: Trong các bước giải toán theo tôi bước này là bước quan trọng nhất để giúp các em xác định được cách giải bài toán đó cụ thể như thế nào? Bước này tập trung cao độ tư duy của học sinh để lập được mối tương quan giữa các đại lượng. Giáo viên là người giúp đỡ học sinh hiểu rõ một số từ quan trọng như “thêm, hơn, kém, bớt, gấp, chia,…”; “còn lại, có tất cả,…” Ở đây giáo viên giúp học sinh biết suy luận: Muốn tìm cái chưa biết thì phải dựa vào thông tin đã biết. Để làm được điều đó cần thực hiện qua các bước: Bước 1: Đọc bài toán (đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc bằng mắt). Bước 2: Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để hiểu nội dung, nắm được mối quan hệ giữa những điều đã biết và những điều cần tìm trong bài toán. Xác định được kiểu bài, dạng bài. Thông thường đề bài của bài toán có lời văn bao gồm có 2 phần đó là: Điều đã biết; điều cần tìm. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nhận biết: Điều đã biết thường bắt đầu bằng từ “ có” Điều cần tìm thường bắt đầu bằng từ “ Hỏi” hay từ “ Tính” Ngoài ra trong đề toán còn nêu ra mối quan hệ giữa điều đã biết và điều cần tìm. Vì vậy muốn tìm hiểu được đề của bài toán yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề bài (3 lần trở lên). Tìm hiểu xem bài toán cho biết những gì, bài toán hỏi gì? Liên hệ với những điều đã học để xác định dạng bài. Ví dụ: Bài tập 4 (Trang 57 – SGK) Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp. Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp? Tìm hiểu, phân tích bài toán ta có thể có các cách như sau: Cách 1: GV hỏi HS: + Bài toán đã cho biết gì? (Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp.) + Bài toán hỏi gì? (Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp?) Cách 2: Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm đề bài, dùng bút chì gạch một gạch dưới điều đã cho biết và hai gạch dưới điều cần tìm. Bước 2: + Học sinh cả lớp cùng hoạt động sau đó nêu ý kiến của mình hoặc lên bảng thực hiện những điều mà giáo viên yêu cầu. + Giáo viên cho một vài học sinh nêu lại điều đã biết và điều cần tìm. GV nhấn mạnh các từ có, đã bán, còn lại để học sinh nhận dạng được bài toán). Qua 2 cách làm trên cho ta thấy: Cách 1: Phân tích rất cụ thể, phù hợp với các đối tượng học sinh lớp 2. Tuy vậy cách phân tích đó nếu lập lại nhiều lần sẽ dập khuôn, máy móc, nhàm chán. Học sinh không phát huy được tính tích cực, chủ động, có em còn ỷ lại cho bạn hoặc chỉ thụ động làm theo ý bạn hay cô giáo nêu ra. Cách 2: Giúp học sinh có kỹ năng biết phân tích bài toán tốt hơn, đọc kỹ đề bài hơn và chủ động, tích cực hơn. Phân tích bài toán theo cách 2 đối với HS lúc đầu có vẻ khó, các em làm hơi chậm nhưng điều quan trọng là rèn luyện cho học sinh có thói quen đọc kỹ đề bài trước khi làm bài. Mỗi cách đều có những mặt tích cực và hạn chế, giáo viên cần linh hoạt vận dụng để hướng dẫn học sinh sao cho đạt hiệu quả cao nhất. 2. Tìm cách giải bài toán: * Tóm tắt bài toán: Dựa vào những điều đã biết, những điều cần tìm để viết tóm tắt bài toán bằng ngôn ngữ toán học (Tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, sơ đồ ven). Ví dụ: * Tóm tắt bằng lời: Bài tập 4 (Trang 57 – SGK) Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp. Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp? Hướng dẫn HS đọc đề bài, nêu những điều đã biết (Có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp ), những điều cần tìm (cửa hàng còn lại mấy xe đạp), chọn lọc những từ ngữ quan trọng (Có, đã bán, còn lại) để tóm tắt bài toán: Tóm tắt: Có : 13 xe đạp Bán : 6 xe đạp Còn lại :.. xe đạp? * Tóm tắt bằng hồ sơ đoạn thẳng Bài 2: (Trang 24 – SGK) Nam có 10 viên bi, Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi? Hướng dẫn HS cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau: Yêu cầu học sinh đọc thầm đề bài, dùng bút chì gạch một gạch dưới điều đã cho biết và 2 gạch dưới điều cần tìm. Sau đó tôi hỏi HS: Nam có bao nhiêu viên bi? (Nam có 10 viên bi), vậy ta biểu thị số bi của Nam bằng 1 đoạn thẳng. 10 viên bi Số bi của Bảo như thế nào so với số bi của Nam? (Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi). Muốn biểu diễn số bi của Bảo ta phải vẽ đoạn thẳng như thế nào? (Đoạn thẳng dài hơn đoạn thẳng biểu diễn số bi của Nam). – Phần dài hơn đó tương ứng với bao nhiêu viên bi? (5 viên bi). – GV vẽ tiếp đoạn thẳng biểu diễn số bi của Bảo. – Vậy bài toán hỏi gì? (Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi?). 10 viên bi 5 viên bi Sau khi phân tích rõ ràng như trên tôi hướng dẫn học sinh vẽ tóm tắt: Nam Bảo ? viên bi * Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt: Cho HS dựa vào tóm tắt nêu lại vắn tắt nội dung của bài toán. * Lập kế hoạch giải bài toán: Xác định trình tự giải bài toán: thông thường xuất phát từ câu hỏi của bài toán đi đến các yếu tố đã cho với yêu cầu bài toán phải tìm và tìm được đúng phép tính số học thích hợp. 3. Tìm lời giải. Học sinh dựa vào câu hỏi của bài để tìm lời giải cho bài toán. (Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu câu trả lời giải chính là câu trả lời cho câu hỏi trong bài – Vì lớp 2 giải toán đều là các bài toán đơn). Vậy để giúp học sinh tìm ra câu trả lời nhanh và đúng nhất, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải như sau: Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán. Ví dụ: Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi? Bỏ bớt chữ “Hỏi”, cụm từ “bao nhiêu” thay bằng từ “số”, thêm từ “là” vào cuối câu được câu lời giải: “Bảo có số viên bi là”. Đây là cách đơn giản, học sinh dễ nắm bắt nhất. Cách 2: Cũng ví dụ trên, đưa từ “viên bi” ở cuối câu hỏi lên đầu câu hỏi thay cho chữ “Hỏi” và thêm chữ “số” ở đầu câu, cuối câu thêm chữ “là” để được câu trả lời: “Số viên bi Bảo có là:”. Cách 3: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Bảo có bao nhiêu viên bi? để học sinh trả lời miệng: “ Bảo có 15 viên bi” rồi chèn phép tính vào để có các bước giải (gồm cả lời giải và cả phép tính). Bảo có số viên bi là: 10 + 5 = 15 (viên bi) Cách 4: Sau khi học sinh nêu phép tính: 10 + 5 = 15 (viên bi), giáo viên chỉ vào 15 và hỏi: “15 viên bi” ở đây là số bi của ai? (là số bi của Bảo). Từ câu trả lời của các em ta giúp học sinh chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số bi của Bảo là”: 4. Xác định đơn vị bài giải: Cách xác định đơn vị của bài toán: Muốn xác định được đơn vị của bài toán phải giúp học sinh trả lời được câu hỏi xem bài toán yêu cầu tìm gì? Giáo viên gạch dưới đơn vị của bài. Giáo viên hướng dẫn tìm cụ thể một vài bài để học sinh định hướng và dần dần xác định được đơn vị của bài toán. Vì bài toán có lời văn của lớp 2 chỉ là những bài toán đơn nên tôi có một mẹo nhỏ giúp HS xác định đúng đơn vị bài toán đó là khi đọc câu hỏi sau từ: bao nhiêu hay từ mấy là từ gì thì đó chính là đơn vị của bài giải. 5. Thực hiện cách giải và trình bày bài giải. Đây là bước cụ thể, cụ thể hóa của quá trình tư duy trên, nó thể hiện rõ nét kỹ năng, kỹ xảo giải bài tập của học sinh, Học sinh dựa vào sơ đồ phân tích trên để viết bài giải, nó được chuyển dịch tư duy ngược lại khi phân tích. – Thực hiện các phép tính đã xác định (có thể viết phép tính sau khi viết câu lời giải và thực hiện phép tính). – Viết câu lời giải. – Viết phép tính tương ứng. – Viết đáp số. – Tôi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải vào vở ô li như sau: + Lùi vào 5 ô so với lề để viết Bài giải. + Viết câu lời giải cân đối với từ Bài giải (thường là lùi vào 2 ô so với lề). + Viết phép tính lùi vào 2 ô so với lời giải. + Viết đáp số lùi vào thẳng với từ bài giải. Ví dụ: Bài giải Số học sinh trong lớp học đó là: 14 + 16 = 30 (học sinh) Đáp số: 30 học sinh Cách trình bày bài giải đối với học sinh lớp 2 cũng rất quan trọng. Giáo viên cần rèn cho học sinh có con mắt thẩm mĩ trong cách trình bày bài, rèn cho các em có thói quen trình bày bài khoa học và đẹp để sau này khi lên các lớp trên các em không còn lúng túng khi trình bày bài giải. 6. Kiểm tra bài giải: Kiểm tra số liệu, kiểm tra tóm tắt, kiểm tra phép tính, kiểm tra câu lời giải, kiểm tra kết quả cuối cùng có đúng với yêu cầu. Tóm lại: Trong quá trình dạy dạng toán có lời văn, giáo viên cần lưu ý: – Luôn luôn củng cố các bước giải toán. Vì nếu trong quá trình giải toán, học sinh không nắm được các bước giải một bài toán thì học sinh sẽ không có cách giải hay, nhanh nhất và đúng nhất. – Giúp học sinh nắm vững, ghi nhớ được các bảng cộng, trừ, nhân, chia. để áp dụng vào phép tính trong bài toán có lời văn. Vì nếu không thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia. không biết cách tính nhẩm thì không tránh khỏi sai sót kết quả của bài toán. B. Các ví dụ: Trong chương trình Toán 2 có các dạng toán giải sau: 1. Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ. 2. Bài toán về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị. 3. Giải các bài toán đơn về phép nhân và phép chia. Tôi có hướng dẫn học sinh ở mỗi dạng bài như sau: 1. Dạng bài toán có phép tính cộng Học sinh cần đọc kỹ đề bài, tìm hiểu các từ ngữ trong bài để xác định hướng giải của bài toán. Dạng này giáo viên hướng dẫn HS dựa vào một số từ ngữ để xác định dạng bài như: Ở phần “cho biết” thường có các từ “và”, “thêm”, phần cần tìm thường có các cụm từ “Hỏi có tất cả”, “hỏi cả hai 2 buổi”, “hỏi cả hai bạn”. Ví dụ 1: Bài tập 4 (Trang 14). Một lớp học có 14 học sinh nữ và 16 học sinh nam. Hỏi lớp học đó có tất cả bao nhiêu học sinh? – Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo các bước: Giáo viên cho học sinh đọc thành tiếng, đọc thầm. Em hãy gạch 1 gạch dưới tất cả những điều

Skkn Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 4

TT Nội dung Trang 1 I. MỞ ĐẦU 1 2 1. Lí do chọn đề tài: 1 3 2. Mục đích nghiên cứu. 2 4 3. Đối tượng nghiên cứu. 2 5 4. Phương pháp nghiên cứu. 2 6 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 7 1. Cơ sở lí luận 2 8 2. Thực trạng của vấn đề 3 9 3. Các giải pháp 5 10 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 13 11 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 14 12 1. Kết luận. 14 13 2. Kiến nghị. 14 I. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Như chúng ta đã biết, Toán học là một trong những môn học đòi hỏi sự tư duy sáng tạo cả người dạy và người học. Chính vì thế, để mỗi học sinh chiếm lĩnh được tri thức nói chung và Toán học nói riêng thì mỗi người thầy cô phải thật sự tâm huyết khơi nguồn tri thức đến mỗi học sinh. Thật vậy, tri thức trong xã hội là chìa khóa vạn năng để mở tất cả các cánh cửa của loài người. Muốn có tri thức thì mỗi người học sinh phải học và phải học thật tốt. Việc học phải trải qua quá trình nghiền ngẫm, suy luận tìm tòi mới có được. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà trường hiện nay là hình thành, phát triển trí tuệ cho học sinh. Trong các môn học nói chung và môn Toán nói riêng đều có nhiệm vụ trao dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng góp phần tích cực vào việc đào tạo con người. Trong các môn khoa học và kĩ thuật , Toán học giữ một vai trò nổi bật. Nó còn là môn thể thao trí tuệ giúp ta rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, học tập và giải quyết vấn đề. Toán học còn giúp ta phát huy một số đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, yêu thích sự chính xác, khẳng định chân lí. Môn Toán là một trong những môn học bắt buộc được dạy trong chương trình Tiểu học. Cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, trong lao động cũng như trong quá trình học sinh học lên các cấp học sau này. Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học được cấu trúc theo vòng tròn đồng tâm và chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn một là các lớp 1, 2, 3 và giai đoạn hai là các lớp 4, 5. Vì trong chương trình Toán lớp 4 nói chung và Toán có lời văn lớp 4 nói riêng là mở đầu là mở đầu giai đoạn hai ở tiểu học. Giai đoạn này, việc giải toán có sự yêu cầu và đòi hỏi cao hơn. Đó là, học sinh phải biết phân tích bài toán hợp thành bài toán đơn, đưa những bài toán phức tạp về các bài toán đơn giản hơn mà các em đã biết cách giải. Học sinh biết vận dụng phép phân tích, tổng hợp trong quá trình tìm, xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch giải. Vì vậy, đây là cơ sở ban đầu rất quan trọng của một giai đoạn mới trong quá trình học toán ở Tiểu học nói chung và giải toán có lời văn nói riêng. Xuất phát từ thực tế dạy học, năm học 2017- 2018 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 4C. Ngay từ những ngày đầu năm học, khi dạy đến các bài toán có lời văn, tôi đã nhận thấy trong lớp mình còn nhiều học sinh gặp khó khăn khi giải toán. Qua khảo sát, điều tra cụ thể, có trên 40% số học sinh trong lớp kĩ năng giải toán chưa đạt yêu cầu. Và đây cũng là điều tôi suy nghĩ rất nhiều, nếu các em giải toán còn yếu thì làm sao nắm được cách giải các bài toán dựa vào sơ đồ đoạn thẳng, dùng chữ thay số, rút về đơn vị và một số dạng toán điển hình của lớp 4 như: tìm hai số khi biết tổng hiệu, tổng tỉ, hiệu tỉ. Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn đưa ra và nghiên cứu đề tài “Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4”. Với hi vọng sau khi nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao trình độ của bản thân, góp phần nâng cao chất lượng dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn ở lớp 4. Qua sáng kiến này tôi cũng muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của bạn bè đồng nghiệp, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học giải toán có lời văn cho học sinh nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Như chúng ta đã biết, việc giải toán có lời văn của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng là việc rất khó khăn đối với các em. Chính vì thế để giúp các em nắm được cách giải của một bài toán là một việc làm cần thiết. Mặt khác, để giải được một bài toán đúng các em cần phải nắm chắc và tổng hợp nhiều kiến thức toán học. Vì vậy, mục đích của đề tài này tôi đưa ra là: + Học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, nhận dạng bài toán và giải tốt các bài toán có lời văn. + Biết cách giải bài toán có lời văn lớp 4 một cách linh hoạt. + Biết cách trình bày bài toán một cách khoa học, chính xác, đầy đủ. + Đối với bản thân giáo viên: tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đức rút kinh nghiệm trong giảng dạy, nhất là mạch kiến thức toán có lời văn lớp 4. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Với mục đích nghiên cứu của đề tài này, khi nghiên cứu tôi hướng tới các bài toán có lời văn trong sách giáo khoa lớp 4. Được sự nhất trí và tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là lớp 4C trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám do tôi phụ trách. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: + Nghiên cứu trên cơ sở lí luận. + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. + Phương pháp thống kê dữ liệu. + Phương pháp trò chuyện, quan sát, điều tra, phỏng vấn. + Phương pháp thực nghiệm sư phạm, trao đổi với đồng nghiệp. + Phương pháp nghiên cứu qua sản phẩm của học sinh. II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn TV, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc trung học. Mặt khác, giải toán có lời văn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho HS năng lực tư duy và đức tính tốt của con người lao động mới, hoạt động trí tuệ trong việc giải toán góp phần giáo dục các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo vv… Song đối với học sinh lớp 4, các em còn hiếu động, ham chơi, chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học nên thường lơ là, xem thường việc học toán. Chính vì thế, việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn là việc làm cần thiết, từ đó học sinh có kiến thức toán học một cách tốt hơn. * Nội dung chương trình Toán lớp 4 gồm : – Ôn tập về số tự nhiên. Bảng đơn vị đo khối lượng. – Bốn phép tính với só tự nhiên. Hình học. – Dấu hiệu chí hết cho 2,5,9,3. Giới thiệu hình bình hành. – Phân số – các phép tính với phân số. Giới thiệu hình thoi. – Ôn tập các nội dung trên. 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ. 2.1. Thực trạng chung Như chúng ta đã biết, chương trình toán lớp 4 là mở đầu cho giai đoạn hai của toán Tiểu học. Chính vì thế, lượng toán giải chiếm số lượng tương đối lớn, trong đó đa số là dạng toán điển hình. Mức độ khó của các bài toán giải cũng đã được nâng lên, chủ yếu là các bài toán hợp. Chính vì thế, để giải được bài toán đòi hỏi học sinh phải sử dụng nhiều kiến thức đã học để giải quyết vấn đề. Đứng trước tình hình đó, nhiều học sinh đã có biểu hiện không hứng thú với việc giải toán. Mặt khác, do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em thường vội vàng, hấp tấp hay đơn giản hóa vấn đề nên đôi khi chưa hiểu kĩ đề, làm bài chưa cẩn thận đã nộp bài. Từ đó dẫn đến bài làm còn nhiều khi bị sai, thiếu sót. Đối với giáo viên còn phải dạy nhiều môn học, số lượng học sinh trong một lớp đông, khả năng tiếp thu của các em không đồng đều, có sự chênh lệch nhiều. Chính vì thế, việc truyền tải kiến thức toán học nói chung và giải toán có lời văn nói riêng đến từng học sinh còn có phần hạn chế. Đối với các em tiếp thu chậm thì việc nắm kiến thức mới và giải các bài toán có lời văn là một việc vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó, trong lớp còn có học sinh tâm lí không ổn định, một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ chưa quan tâm đến việc học hành của con cái. Chính vì thế mà đôi khi, chưa có sự thống nhất cao giữa giáo viên và cha mẹ học sinh. Từ đó, hiệu quả học tập của các em chưa cao, nhất là việc giải toán có lời văn lại là sự cản trở lớn trong việc hoc tập của các em. 2.2.Thực trạng của trường, lớp Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám là ngôi trường nằm ở trung tâm thành phố Thanh Hóa. Bản thân tôi mới về nhận công tác được gần ba năm nhưng tôi nhận thấy, đây là ngôi trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương. Trường có một tập thể cán bộ giáo viên với nhiều bề dày kinh nghiệm, có trình độ chuẩn và trên chuẩn luôn tâm huyết với nghề. Cùng với đó là ban giám hiệu luôn quan tâm tạo điều kiện để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì thế mà ngôi trường đã đón nhận gần một nghìn học sinh. Đây là ngôi trường mà các bậc phụ huynh luôn đặt niềm tin cao, để gửi gắm cho em mình về đây học tập. Bên cạnh những mặt thuận lợi trên thì bản thân tôi còn nhận thấy một số mặt khó khăn hạn chế mà trường và lớp tôi gặp phải đó là: khuôn viên trong trường đang hẹp so với số lượng học sinh, diện tích phòng học chưa đảm bảo, số lượng học sinh trong một lớp đông. Chính vì thế mà phần nào đã ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi và sinh hoạt của các em. Còn về phần lớp4C do tôi chủ nhiệm tổng số học sinh là 42 em, trong đó có 21 em nam và 21 em nữ. Nhìn chung các em ngoan, chịu khó học bài và làm bài, phụ huynh cũng trang bị đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Song từ khi nhận lớp, tôi đã nhận thấy một số em trong lớp còn hiếu động, chưa tập trung tiếp thu bài, khả năng tiếp thu còn chậm, có cả học sinh tâm lí không bình thường.Phụ huynh đa số là buôn bán tự do, một số gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên chưa sát sao đến việc học tập của con em mình. Chính vì thế, một số em đã có tính ỉ lại, chưa có sự chịu khó, vươn lên để học tập. Đặc biệt việc nắm kiến thức giải toán có lời văn đối với các em lại càng hạn chế hơn. Bên cạnh đó khả năng tiếp thu các kiến thức của các em không đồng đều. Đối với các em tiếp thu tốt thì việc vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học vào từng bài cụ thể là rất tốt. Song đối với các em tiếp thu chậm, khả năng vận dụng kiến thức tổng hợp vào từng bài cụ thể là hết sức khó khăn. Do đó, đối với giáo viên việc vừa dạy kiến thức mới, vừa ôn tập củng cố và dẫn dắt học sinh giải một bài toán là việc làm thường xuyên và cần thiết. Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng của lớp để nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh trong lớp cụ thể đề khảo sát là: Câu 1: Lớp 4D có 20 học sinh nam và 12 học sinh nữ. Hỏi số học sinh nữ ít hơn số học sinh nam là bao nhiêu em? Câu 2: Một xe ô tô chuyến trước chở được 3 tấn muối, chuyến sau chở nhiều hơn chuyến trước 3 tạ. Hỏi cả hai chuyến chở được bao nhiêu tạ muối? Câu 3: Lớp 4A trồng được 36 cây, lớp 4B trồng nhiều hơn lớp 4A 6 cây. Hỏi trung bình mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? Kết quả khảo sát thu được là: Tổng số Học sinh Giải đúng và nhanh SL TL Giải đúng nhưng còn chậm SL TL Giải chưa đúng SL TL 42 14 33,3 16 38,2 12 28,5 3. CÁC GIẢI PHÁP 3.1. Rèn cho học sinh các kiến thức và kĩ năng toán học, biết vận dụng linh hoạt các kiến thức và kĩ năng đó vào việc giải toán có lời văn. Để giải bài toán này thì học sinh cần vận dụng hai mạch kiến thức để giải. Đó là tính tổng số cân nặng của 4 em và lấy tổng chia cho 4 để ra trung bình số cân nặng của mỗi em. Song đối với những em tiếp thu chậm, chỉ tính số cân nặng của 4 em là xong. Ví dụ: Trung bình mỗi em cân nặng là: ( 36 + 38 + 40 + 34) = 148 ( kg) – Muốn tìm trung bình mỗi em nặng bao nhiêu trước hết ta phải làm gì? ( Tính tổng số tuổi của 4 em) – Để tìm trung bình cộng số tuổi của 4 em ta làm như thế nào? ( Ta lấy tổng số tuổi chia cho 4) Qua đó, học sinh sẽ hiểu rõ hơn, để giải quyết bài toán này cần phải vận dụng hai mạch kiến thức đã học. Với bài toán khác: Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 35m, chiều dài bằng 3 Chiều rộng. Tính diện tích hình chữ nhật đó? 2 Để học sinh giải tốt được bài toán này thì giáo viên cần giúp học sinh nắm tổng hợp các kiến thức. Khi phân tích đề giáo viên có thể biểu diễn bằng sơ đồ đoạn thẳng để học sinh dễ dàng nhận ra. Chiều dài: 35m Chiều rộng: Nhìn vào sơ đồ, học sinh có thể thấy nửa chu vi hình chữ nhật chính là tổng của một chiều dài và một chiều rộng và là tổng của hai số. Đến đây học sinh dễ dàng nhận ra đây là dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó”. Như vậy, để tìm được chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật học sinh phải vận dụng cách giải dạng toán trên. Khi tìm được chiều dài, chiều rộng thì một kiến thức cần củng cố cho học sinh là cách tính diện tích hình chữ nhật. 3.2. Rèn luyện qua các bước giải để học sinh có kĩ năng giải bài toán Như chúng ta đã biết, để giải được bài toán, ta phải tiến hành qua một số bước cụ thể như sau: Bước 1: Rèn kĩ năng đọc và phân tích bài toán – Kĩ năng đọc là một trong các kĩ năng được quan tâm chú trọng ngay từ khi các em vào học lớp 1. Kĩ năng này vẫn được rèn luyện cho các em ở các lớp trên thông qua môn tập đọc và một số môn khác. Tuy là học sinh lớp 4 nhưng kĩ năng đọc của một số em chưa tốt. – Với những em đọc chưa tốt thì tôi luôn dành nhiều thời gian hơn cho các em được rèn kĩ năng đọc, không những trong giờ tập đọc mà còn trong cả tiết học khác như: Lịch Sử, Địa Lý, Khoa Học…Không những các em ngắt nghỉ chưa đúng mà việc đọc bỏ từ, thiếu từ thì sẽ dẫn đến các em hiểu sai đề. Ví dụ: với đề toán “ Cả hai lớp 4A và 4B trồng được 600 cây. Lớp 4A trồng được ít hơn lớp 4B là 500 cây. Hỏi mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây?” ( Trang 47- SGK Toán 4). Nếu học sinh đọc không cẩn thận sẽ bỏ đi từ “ ít” thì cách hiểu bài toán lại hoàn toàn ngược lại. Chính vì thế, bước đầu tiên phải giúp học sinh đọc đề chính xác. Mặt khác, các em đọc đề tốt cũng chưa hẳn các em hiểu đề tốt. Do đó, khâu phân tích đề cũng rất quan trọng. Trong bài toán, đôi khi người ta sử dụng bằng các ngôn ngữ tự nhiên như “ bay đi”, “ cho đi”, “ ăn đi”… có nghĩa là số lượng đã được bớt đi. Hay các từ “ đổ đều”, có nghĩa là chia đều. Hay với những dạng toán tổng hiệu, tổng tỉ, hiệu tỉ. Đôi khi trong bài toán người ta không nói rõ đâu là tổng, đâu là hiệu và đâu là tỉ. Song qua việc phân tích đề bài ta phải xác định ra đâu là các dữ kiện bài toán đã cho tương ứng với từng dạng toán. Có bài toán dạng tổng tỉ như sau: Ví dụ: “Có 10 túi gạo nếp và 12 túi gạo tẻ cân nặng tất cả là 220kg. Biết rằng số gạo trong mỗi túi đều cân nặng bằng nhau. Hỏi có bao nhiêu kg gạo mỗi loại?” ( Trang 152-SGK Toán 4). Trong bài toán này các em phải hiểu được “ tổng” của hai số được thay bằng cụm từ “ nặng tất cả”, tỉ số của hai số đó chính là số túi gạo nếp và số túi gạo tẻ. Chính vì thế, trước một bài toán các em phải biết phân tích đề và đưa bài toán về các dạng toán quen thuộc để giải. Mặt khác, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong học toán có nhiều từ gần như là “ mặc định” trong đầu các em. Ví dụ các em cứ thấy từ “ nhiều hơn” là nghĩ đến phép cộng và từ “ ít hơn” là nghĩ đến phép trừ. Nên khi gặp một bài toán có các từ như thế thì các em dễ giải sai. Ví dụ bài toán: Trong đợt phát động trồng cây, lớp 4A trồng được 32 cây, lớp 4B trồng được nhiều hơn lớp 4A là 3 cây nhưng ít hơn lớp 4C là 6 cây. Hỏi trung bình mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? Có một số học sinh đã trình bày bài giải như sau: Lớp 4B trồng được số cây là: 32 + 6 = 38 ( cây) Lớp 4C trồng được số cây là: 32 – 6 = 26 ( cây) Như vậy, các em đã bị ám bởi từ “ít hơn”, từ này đã làm lạc hướng học sinh nên các em đã chọn phép tính trừ trong phép tính thứ hai, trong khi phép tính đúng là phép cộng. Thật vậy, để giúp học sinh đọc kĩ bài toán thì tôi luôn rèn cho học sinh kĩ năng đọc, đồng thời để học sinh phân tích, xác định được dạng toán thì cần phải giúp học sinh hiểu đề. Như chúng ta đã biết, mỗi đề toán thường có hai bộ phận, bộ phận thứ nhất là những điều đã cho, bộ phận thứ hai là những điều chúng ta phải tìm. Muốn giải bất kì bài toán nào thì chúng ta cũng phải xác định đúng hai bộ phận đó. Chúng ta cần giúp học sinh tập trung vào những từ quan trọng gọi là từ khóa của đề toán. Từ nào chưa hiểu thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó. Cần giúp học sinh phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất của đề toán, để từ đó hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết. Đồng thời khi giải toán tôi yêu cầu học sinh đọc đề nhiều lần, rồi hướng học sinh phân tích xem bài toán cho ta biết gì? Hỏi ta điều gì? Từ đó học sinh phân biệt được các yếu tố cơ bản của bài toán có lời văn. Những dữ kiện ( cái đã cho), những ẩn số (cái chưa biết, cần tìm), những điều kiện ( quan hệ giữa các điều kiện và ẩn số). Khi học sinh đọc đề toán mà giáo viên nhận thấy từ nào trong đề bài mà học sinh có khả năng không hiểu thì bằng nhiều cách khác nhau để giúp học sinh hiểu từ đó. Ví dụ, với bài toán đã nêu ở trên, tôi nhận thấy rằng, nếu để các em tự lực thì sẽ có nhiều em lựa chọn sai phép tính ở lời giải thứ hai. Chính vì thế, khi học sinh đọc đề và phân tích đề, tôi cho học sinh giải thích xem là em hiểu “ Lớp 4B trồng được nhiều hơn lớp 4A là 3 cây nhưng ít hơn lớp 4C là 6 cây có nghĩa là như thế nào?” Từ các lí do nêu trên cho chúng ta thấy việc đọc đề, phân tích và hiểu đề là một trong những việc làm cần thiết để giải bài toán có lời văn. Bước 2: Tóm tắt đề và lập kế hoạch giải bài toán Thật vậy, sau bước đọc đề và phân tích đề thì

Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5

Chương trình Toán của Tiểu học có vị trí rất quan trọng. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản.

Môn toán ở Tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.

Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn Toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ”chìa khoá” mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước.

PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Chương trình Toán của Tiểu học có vị trí rất quan trọng. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn toán ở Tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn Toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước. Trong dạy - học Toán ở Tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Dạy học giải toán có lời văn ở bậc Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau: - Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kỹ năng tính toán bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. - Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. - Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động, như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể, ... Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán đối với các em không còn mới lạ, khả năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và đang ở giai đoạn phát triển. Học sinh đã có vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những hiểu biết nhất định. Tuy nhiên trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một số sai sót mà học sinh thường mắc là không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán, ... nên đã lựa chọn sai phép tính. Với những lý do đó, học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn là rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán lôgic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó tôi đã lựa và thực hiện sáng kiến "Rèn kĩ năng gi¶i toán có lời văn cho học sinh lớp 5 " để nghiên cứu, với mục đích là: - Tìm hiểu những kỹ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5. - Hướng dẫn học sinh giải cụ thể một số bài toán, một số dạng toán có lời văn ở lớp 5, từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy - học giải toán có lời văn. PHẦN II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ së lý luận Giải toán là một phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bậc Tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học, số tự nhiên, phân số, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, các yếu tố đại số và hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các vấn đề sau: +) Các khái niệm và các quy tắc trong sách giáo khoa nói chung đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc khắc phục. +) Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. +) Việc giải toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật biện chứng: việc giải toán với những nội dung thích hợp, có thể giới thiệu cho các em những thành tựu trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta và các nước anh em, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới, góp phần giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch v.v... Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng v v... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v v.. +) Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những phẩm chất tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... .Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v... 2. Thực trạng của vấn đề Qua thực tế giảng dạy tôi thấy: Hướng dẫn học sinh giải toán đã khó nhưng hướng dẫn học sinh giải một bài toán có lời văn lại càng khó hơn. Mặt khác do kĩ năng đọc của các em còn yếu nên kĩ năng đọc - hiểu lại càng khó khăn hơn. Chính vì vậy môn Toán ở Tiểu học nói chung, phần toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng sẽ đóng góp một phần không nhỏ vào việc giáo dục toàn diện và giúp học sinh học tốt ở các lớp trên. 3. Các biện pháp mới đã thực hiện để giải quyết vấn đề 3.1. NhËn thøc ®óng ®¾n vÒ viÖc ®æi míi ph­¬ng ph¸p gi¶ng d¹y m"n To¸n Đổi mới phương pháp dạy toán là một điều rất cần thiết, xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục, trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thể hiện qua Nghị quyết XI của Đảng về đổi mới căn bản Giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Qua đó tôi thấy được đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới từ cách nghĩ, cách soạn và giảng bài. Nhưng đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ những phương pháp dạy học truyền thống mà trên cơ sở đó chúng ta sử dụng những phương pháp dạy học tích cực, linh hoạt phù hợp với đặc trưng tiết dạy, thừa kế, phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống. 3.2. Xây dựng các bước cơ bản khi dạy 1 bài toán có lời văn ở lớp 5. a/ Tìm hiểu đề Đây là bước rất quan trọng nó giúp học sinh nắm được các dữ liệu của bài toán đã cho yếu tố bài toán yêu cầu giải đáp. Do đó, khi đọc đề toán tôi hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để nắm được các dữ liệu đã cho và yếu tố bài toán yêu cầu tìm. Dựa vào đề bài tóm tắt bài toán bằng lời ngắn gọn, hoặc sơ đồ đoạn thẳng. Tóm tắt đủ ý, chính xác, ngắn gọn và cô đọng. b/ Lập kế hoạch giải Dựa vào phần tóm tắt, tôi lựa chọn câu hỏi thích hợp để giúp học sinh xác định đầy đủ. Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? (Yêu cầu cần tìm). Bằng phương pháp gợi mở, tôi dẫn dắt học sinh bằng cách đưa ra những tình huống gợi mở để học sinh tìm ra cách giải bài toán: Làm thế nào? tại sao?, c/ Giải bài toán Đây là bước rất quan trọng bởi khi học sinh đã tìm ra được phép tính đúng nhưng khi trình bày bài giải lại chưa hoàn chỉnh ( câu trả lời chưa đúng). Vì vậy khi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải tôi đã hướng ... m hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó Đối với dạy toán này tôi cũng hướng dẫn các em làm bài toán theo bước: - Xác định hiệu của 2 số . - Xác định tỉ số của hai số - Tìm hiệu số phần bằng nhau - Tìm giá trị 1 phần - Tìm mỗi số theo số phần biểu thị. * Ví dụ: Hiệu của hai số là 55. Số thứ nhất bằng số thứ hai. Tìm hai số đó . ( Bài 1/b - trang 18- SGK toán 5) Bước 1: Tìm hiểu đề Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài và tìm hiểu những dữ liệu đã biết của bài, yêu cầu của bài toán. +) Bài toán cho biết gì? ( Hiệu của hai số là 55. Số thứ nhất bằng số thứ hai) +) Bài toán yêu cầu tìm gì? (Tìm 2 số đó) - Tóm tắt bài toán Hãy nêu cách vẽ sơ đồ bài toán? ( Dựa vào tỉ số của hai số, ta có thể vẽ sơ đồ bài toán. Tỉ số của số thứ nhất và số thứ hai là , nếu số thứ nhất là 9 phần thì số thứ hai sẽ là 4 phần như thế ) Bước 2: Lập kế hoạch giải - Làm thế nào để tìm được hai số đó? ( Tính hiệu số phần bằng nhau, sau đó tìm số thứ nhất số thứ hai) - Làm thế nào để tìm được số thứ hai ( em hãy đi tìm giá trị của 1 phần rồi nhân với số phần biểu thị ) - Em tìm giá trị 1 phần bằng cách nào? ( lấy hiệu chia cho hiệu số phần) - Tìm được số thứ hai, muốn tìm số thứ nhất em phải làm thế nào? ( Lấy số bé cộng với hiệu ) - Bài nào có thể có mấy cách giải ( 2 cách giải ) Bước 3: Giải bài toán 55 ? ? Cách 1: Ta có sơ đồ: Số thứ hai: Số thứ nhất: Theo sơ đồ, số thứ hai là : 55 : ( 9 - 4) x 4 = 44 Số thứ nhất là : 44 + 55 = 99 Đáp số: Số thứ hai: 44 Số thứ nhất: 99 Cách 2: 55 ? ? Ta có sơ đồ: Số thứ nhất: Số thứ hai: Theo sơ đồ, số thứ nhất là : 55 : ( 9 - 4) x 9 = 99 Số thứ hai là : 99 - 55 = 44 Đáp số: Số thứ nhất: 99 Số thứ hai: 44 Bước 4: Thử lại Hướng dẫn HS thử lại bài toán. Hiệu giữa 2 số là : 99 - 44 = 55 Tỉ số của số thứ nhất bằng số thứ hai: d. Dạy bài toán tìm tỉ số phần trăm * Dạy bài toán tìm tỉ số phần trăm của hai số. Đối với dạng toán này tôi hướng dẫn học sinh giải bài toán theo các bước: - Tìm thương của hai số đó. - Nhân thương đó với 100, viết thêm kí hiệu % vào bên phải tích tìm được. * Ví dụ: Một lớp học có 25 học sinh, trong đó có 13 học sinh nữ. Hỏi số học sinh nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh của lớp đó? ( Bài 3 trang 75 - SGK toán 5 ) Bước 1: Tìm hiểu đề - Cho học sinh tự đọc đề bài nhiều lượt. - Hướng dẫn học sinh nắm các dữ liệu bài toán. +) Bài toán cho biết gì? (Lớp học có 25 học sinh, trong đó có 13 học sinh nữ) +) Bài toán yêu cầu tìm gì? (Số học sinh nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh của lớp) - Tóm tắt bài toán Lớp học: 25 học sinh Trong đó: 13 nữ Nữ: ...% số HS lớp? Bước 2: Lập kế hoạch giải: Muốn tính số HS nữ chiếm bao nhiêu số phần trăm số HS của lớp ta làm thế nào ? (Tìm thương của 13 và 25 sau đó nhân thương đó với 100, viết thêm kí hiệu phần trăm vào bên phải tích vừa tìm được ). Bước 3 : Giải bài toán Tỉ số phần trăm của số HS nữ và số HS cả lớp là: 13 : 25 = 0, 52 0,52 = 52% Đáp số: 52 % Bước 3: Thử lại Muốn thử lại bài toán ta làm thế nào? (Thực hiện phép tính ngược lại để kiểm tra kết quả) 52 : 100 25 = 13 * Dạy bài toán tìm một số phần trăm của một số. Đối với dạng toán này tôi hướng dẫn học sinh giải bài toán theo các bước: - Lấy số đó chia cho 100. - Nhân thương đó với số phần trăm. Hoặc: - Lấy số đó nhân với số phần trăm - Nhân tích đó với 100. * Ví dụ : Một lớp học có 32 học sinh, trong đó số học sinh 10 tuổi chiếm 75%, còn lại là học sinh 11 tuổi. Tính số học sinh 11 tuổi của lớp học đó. (Bài 1 - trang 77 - SGK toán 5) Bước 1: Tìm hiểu đề - Tôi hướng dẫn học sinh đọc đề toán nhiều lần, nhấn mạnh những dữ kiện cho trước và yếu tố cần tìm. +) Bài toán cho biết gì? ( lớp học có 32 học sinh, số học sinh 10 tuổi chiếm 75% còn lại là HS 11 tuổi). +) Bài toán yêu cầu tìm gì? (Tính số học sinh 11 tuổi của lớp học đó) - Tóm tắt bài toán: Lớp học: 32 học sinh HS 10 tuổi: 75% HS 11 tuổi:... học sinh Bước 2: Lập kế hoạch giải: - Làm thế nào để tính được số học sinh 11 tuổi? ( Ta lấy tổng số học sinh cả lớp trừ đi số học sinh 10 tuổi) - Vậy trước hết ta phải tìm gì? ( Tìm số HS 10 tuổi) Bước 3 : Giải bài toán Bài giải Cách 1: Số học sinh 10 tuổi là: 32 75 : 100 = 24 (học sinh ) Số học sinh 11 tuổi là: 32 - 24 = 8 ( học sinh) Đáp số: 8 học sinh Cách 2: Số học sinh 10 tuổi là: 32 : 100 75 = 24 (học sinh ) Số học sinh 11 tuổi là: 32 - 24 = 8 (học sinh) Đáp số: 8 học sinh Bước 4: Thử lại Hướng dẫn học sinh thử lại: 8 + 24 = 32 * Dạy bài toán tìm một số khi biết giá trị một số phần trăm của nó Đối với bài toán này tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán theo các bước giải: - Lấy giá trị phần trăm chia cho số phần trăm. - Nhân thương đó với 100. Hoặc: - Lấy giá trị phần trăm nhân với 100. - Lấy tích chia cho số phần trăm. * Ví dụ: Số học sinh khá của trường Vạn Thịnh là 552 em, chiếm 92% số học sinh toàn trường. Hỏi trường Vạn Thịnh có bao nhiêu học sinh? (BT1 - trang 78 - SGK toán 5 ) Bước 1: Tìm hiểu đề - Tôi hướng dẫn các em đọc đề toán nhiều lần để tìm hiểu các dữ liệu tường minh của bài toán. +) Bài toán cho biết gì? ( Số HS khá 552 em chiếm 92% số HS cả trường) +) Bài toán yêu cầu tìm gì? ( Trường đó có bao nhiêu học sinh) - Tóm tắt bài toán HS khá trường 552 em : chiếm 92% số HS toàn trường Trường: ... học sinh? Bước 2 : Lập kế hoạch giải - Làm thế nào để tính được số HS của trường Vạn Thịnh? ( Tìm 1% số HS của trường là bao nhiêu em) - Số HS khá chiếm 92% số HS toàn trường. Vậy số HS toàn trường là bao nhiêu phần trăm? ( 100%) - Tìm số HS toàn trường ta làm thế nào? ( lấy số HS của 1% nhân với 100) Bước 3: Giải bài toán Bài giải Trường Vạn Thịnh có số học sinh là: 552 100 : 92 = 600 ( học sinh) Đáp số: 600 học sinh Bước 4: Thử lại - Hướng dẫn học sinh thử lại bài toán ( lấy số học sinh toàn trường chia cho 100 rồi nhân với 92) 600 : 100 92 = 552 4/ Hiệu quả của sáng kiến Qua quá trình hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn theo hướng đi trên. Tôi nhận thấy năm học 1010 - 2011 học sinh ở lớp 5A đã nắm chắc được trình tự giải bài toán về Tìm số trung bình cộng; Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó; Bài toán tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó; Bài toán về tỉ số phần trăm. Các em đã biết tóm tắt bài toán, biết tìm lời giải và phép tính đúng theo yêu cầu của mỗi bài tập theo các dạng toán đã học. Kết quả học tập môn Toán được nâng lên đáng kể. Cụ thể như sau: Thời gian kiểm tra Tổng số học sinh Kết quả Điểm 1 - 2 Điểm 3 - 4 Điểm 5 - 6 Điểm 7 - 8 Điểm 9 - 10 SL % SL % SL % SL % SL % Giữa kỳ I 25 3 12 3 12 9 36 8 32 2 8 Cuối kỳ I 25 2 8 3 6 10 40 7 28 3 12 Giữa kỳ I 25 1 4 1 4 10 40 8 32 5 20 Cuối kì II 25 0 0 0 0 9 36 8 32 8 32 Như vậy, với việc áp dụng kinh nghiệm "Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh ở lớp 5" Bản thân tôi đã lựa chọn phương pháp và sử dụng các hình thức dạy học phù hợp với đặc điểm, đối tượng học sinh gắn với từng nội dung của từng bài cụ thể. Nhờ đó mà kết quả học tập môn toán của lớp tôi được nâng lên rõ rệt so với đầu năm học. PHẦN III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Trong hoạt động dạy - học, người giáo viên ngoài việc tìm tòi phương pháp học đúng để lĩnh hội tri thức mới hình thành nên kỹ năng, kỹ xảo từ đó hoàn thành nhiệm vụ dạy học. Muốn học tốt môn Toán nhưng lại không có phương pháp học đúng thì kết quả học toán sẽ không cao. Do vậy, muốn có phương pháp học tốt phù hợp với môn Toán là rất cần thiết. Đặc biệt là ở lứa tuỏi học sinh Tiểu học. Có kết quả môn Toán cao là nhờ biết kết hợp các phương pháp học đúng, giúp học sinh hiểu bài nhanh và nhớ lâu. Do vậy, việc dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày. Những kết quả mà tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn Toán ở bậc Tiểu học, song lại là cái mới đối với bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở bậc Tiểu học. Tôi tự cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm các kiến thức và kĩ năng sư phạm, sự ham muốn, say sưa với việc nghiên cứu. Tuy nhiên sáng kiến này của tôi là giai đoạn đầu nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, của các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề giải toán có lời văn cho học sinh ở bậc Tiểu học nói chung và giải Toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng. 2. Kiến nghị 2. 1. Đối với nhà trường Nhà trường cần có đủ sách tham khảo cho giáo viên và học sinh về môn Toán. 2.2. Đối với tổ chuyên môn 2. 3. Đối với giáo viên Trước khi lên lớp phải nghiên cứu kỹ bài giảng, tìm ra phương pháp dạy phù hợp với từng bài học. Tạo không khí học tập sôi nổi, lôi cuốn học sinh tập trung chú ý nghe giảng, kích thích học sinh tư duy, suy nghĩ, sáng tạo làm cho giờ học diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả. 2.4. Đối với phụ huynh Mua đủ sách giáo khoa cho học sinh và các loại sách tham khảo về môn Toán. 2.5. Đối với học sinh + Chăm chỉ học tập. + Cần rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Ph­îng Mao, ngµy 20 th¸ng 10 n¨m 2011 Ng­êi thùc hiÖn §inh ThÞ Hång H¶i Phần I: Đặc vấn đề Phần II: Giải quyết vấn đề 1. Cơ sở lý luận 2. Thực trạng của vấn đề 3. Các biện pháp mới đã thực hiện để giải quyết vấn đề 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm . Phần III: Kết luận và kiến nghị 1. Kết luận 2. Kiến nghị 3. Đề xuất hướng phát triển tiếp sáng kiến kinh nghiệm 4. Kết lụân và kiến nghị Phụ lục: Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện đại hội Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam 2. Luật giáo dục năm 2005. 3. Chương trình Tiểu học - 2000 (Đỗ Đình Than - Nguyễn Việt Hùng) 4. Nhiệm vụ năm học. 5. Chuẩn kiến thức kĩ năng 6. Sách giáo khoa Toán 5 7. Sách hướng dẫn giảng dạy Toán 5, NXB Hà Nội năm 2010 8. Thiết kế bài giảng Toán 5 9. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III.

Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN TOÁN

––

Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS Dương Hữu Tòng

Lâm Thị Mĩ Kim Ngành: Sư phạm Tiểu học Khóa: 37 MSSV: 1110305

Cần Thơ, tháng 04 năm 2015

z

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN TOÁN

––

Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS Dương Hữu Tòng

Lâm Thị Mĩ Kim Ngành: Sư phạm Tiểu học Khóa: 37 MSSV: 1110305

Cần Thơ, tháng 04 năm 2015

LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, rèn luyện tại Trường Đại học Cần Thơ, dưới sự hướng dẫn và giảng dạy của các Thầy Cô cùng với sự giúp đỡ của các bạn, em đã học hỏi và tích lũy được nhiều vốn kiến thức quý báu. Vốn kiến thức này đã giúp em rất nhiều trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn. Và chắc chắn rằng, đó cũng sẽ là một hành trang vững chắc để em có thể trở thành một người giáo viên tốt. Hoàn thành Luận văn này, em xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy Cô Trường Đại học Cần Thơ, đã truyền thụ cho em những kiến thức và kinh nghiệm quý báu. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy Dương Hữu Tòng, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ để em có thể hoàn thành Luận văn này. Cuối cùng, em xin cảm ơn các Thầy Cô trường Tiểu học Ngô Quyền đã luôn tạo điều kiện giúp em tiến hành Thực nghiệm để hoàn tất quá trình nghiên cứu.

Em xin chân thành cảm ơn. Kính chúc quý Thầy Cô và các bạn thật nhiều sức khỏe và thành công trong công việc !

Cần Thơ, tháng 4 năm 2015 Người viết

Lâm Thị Mĩ Kim

MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Phạm vi và đối tượng của nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu 6. Tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề 7. Cấu trúc luận văn 8. Một số từ ngữ được viết tắt trong Luận văn

NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 1. Một số đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học 1.1.

Những thay đổi của trẻ khi bắt đầu đi học

1.2.

Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học

1.3.

Đặc điểm nhân cách của học sinh Tiểu học

1.3.1

Tính cách của học sinh Tiểu học

1.3.2 Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học 1.3.3 Đặc điểm đời sống tình cảm 2. Khái quát chương trình toán Tiểu học 2.1 Sự giống nhau và khác nhau giữa 2 giai đoạn dạy học toán ở Tiểu học 2.1.1

Sự giống nhau giữa 2 giai đoạn các lớp 1,2,3 và giai đoạn các lớp

4,5 của dạy Toán ở Tiểu học

2.1.2. Sự khác nhau giữa hai giai đoạn các lớp 1,2,3 và giai đoạn các lớp 4,5 của dạy học toán ở tiểu học. 2.2. Trình độ chuẩn của học sinh về giải toán có lời văn ở các lớp bậc tiểu học. 3. Một số phương pháp dạy học được sử dụng. 3.1. Phương pháp giảng giải 3.2. Phương pháp đàm thoại 3.3. Phương pháp trực quan 3.4. Phương pháp thực hành luyện tập 4. Dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học 4.1 Ý nghĩa của việc dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học 4.2 Cấu trúc của một bài toán có lời văn 4.2.1 Các thành phần của một bài toán có lời văn 4.2.2 Cấu trúc của bài toán 4. 3 Các bước cơ bản để giải một bài toán có lời văn 4.3.1 Bước 1: Đọc kĩ đề bài 4.3.2 Bước 2: Tóm tắt đề toán 4.3.3 Bước 3: Phân tích bài toán để lập kế hoạch giải 4.3.4 Bước 4: Thực hiện phép tính theo trình tự đã thiết lập và viết bài giải. 4.3.5 Bước 5: Kiểm tra bài giải và đánh giá kết quả 4.4 Các dạng toán có lời văn ở tiểu học 4.4.1 Dạng bài toán đơn 4.4.1.1 Phân loại

4.4.1.2 Cách dạy học giải toán đơn 4.4.2 Dạng bài toán hợp 4.4.2.1 Phân loại 4.4.2.2 Cách dạy học giải toán hợp 4.4.3 Dạng toán điển hình 4.4.3.1 Phân loại 4.4.3.2 Cách dạy học giải toán điển hình 4.5 Một số phương pháp giải toán 4.5.1 Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng 4.5.2 Phương pháp rút về đơn vị – Phương pháp tỉ số 4.5.3 Phương pháp chia tỉ lệ 4.5.4 Phương pháp giả thuyết tạm 4.5.5 Phương pháp tính ngược từ cuối 4.5.6 Phương pháp thay thế 4.6 Phương pháp suy luận thường dùng trong giải toán có lời văn ở tiểu học 4.6.1 Phương pháp phân tích (Phân tích đi lên) 4.6.2 Phương pháp tổng hợp (Phân tích đi xuống) 4.7 Phương pháp tóm tắt một bài toán 4.7.1 Phương pháp tóm tắt dùng sơ đồ đoạn thẳng 4.7.2 Phương pháp dùng sơ đồ khối 4.7.3 Phương pháp tóm tắt dùng ngôn ngữ ngắn gọn 4.7.4 Phương pháp tóm tắt dùng hình tượng trưng 4.7.5 Phương pháp tóm tắt dùng công thức bằng lời 4.7.6 Phương pháp tóm tắt bằng lưu đồ 4.7.7 Ví dụ 4.8 Quy định cách trình bày bài giải toán ở tiểu học 4.8.1 Cách ghi các phép tính giải 4.8.2 Cách ghi câu lời giải 4.8.3 Cách ghi trình bày bài giải

CHƯƠNG III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 1. Mô tả thực nghiệm 1.1 Mục đích thực nghiệm 1.2 Nội dung thực nghiệm 1.3 Đối tượng thực nghiệm

1.4 Thời gian thực nghiệm 1.5 Hình thức thực nghiệm 2. Tổ chức thực nghiệm 2.1 Tiến hành thực nghiệm 2.1.1 Tường thuật các tiết dạy thực nghiệm 2.1.2 Tổ chức kiểm tra 3. Kết luận 4. Giáo án đề nghị

KẾT LUẬN PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy môn toán nói riêng là một yêu cầu cần thiết trong tình hình hiện nay. Trong các môn học ở bậc tiểu học, môn toán chiếm thời lượng lớn trong các môn học (sau môn Tiếng Việt). Việc đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và dạy học toán nói riêng là việc làm cần thiết và cấp bách theo hướng phát triển tính tích cực của học sinh. Trong quá trình làm gia sư dạy toán lớp 2, em đã quan sát và nhận thấy các kiến thức số học, đại lượng, đo đại lượng và các yếu tố hình học tương đối gần gũi với học sinh nên các em ít gặp khó khăn. Nhưng khi làm quen với dạng toán có lời văn, học sinh thường lúng túng, không biết cách tóm tắt đề toán hoặc tóm tắt sai do không biết bài toán đã cho biết gì và yêu cầu gì, hướng giải quyết bài toán ra sao ?… Ngoài ra các em còn gặp khó khăn trong việc diễn đạt bằng lời và trình bày bài giải khi viết. Sự đổi mới một cách toàn diện cả về nội dung chương trình lẫn phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải có cách nhìn đúng về dạy học toán. Qua đó giúp học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo trong hoạt động học tập. Nhưng trong quá trình giảng dạy còn nhiều giáo viên lạm dụng phương pháp giảng giải trong dạy học toán, chưa phát huy được hết vai trò của học sinh trong quá trình học tập, chưa tập cho học sinh có thói quen suy nghĩ, tìm hiểu nội dung bài để học sinh tiếp thu kiến thức. Từ thực tế đó càng làm cho học sinh khó tiếp nhận các bài toán có lời văn, dẫn đến việc tiếp thu kiến thức của học sinh một cách thụ động, không có hứng thú tham gia giải các bài toán có lời văn, dẫn đến kết quả học tập ở dạng toán náy chưa cao. Do đó, là người giáo viên tương lai em rất quan tâm về vấn đề này và em quyết định chọn đề tài ” Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 ” với mong muốn góp phần vào việc hình thành kĩ năng giải toán có lời văn và lòng say mê học toán cho các em. Đồng thời phát triển tư

duy và nâng cao hiệu quả học tập của học sinh, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học.

2. Mục đích nghiên cứu – Tìm hiểu những khó khăn, sai sót của học sinh trong việc giải toán có lời văn. Phân tích nguyên nhân sai sót và đề ra biện pháp khắc phục. – Tìm hiểu thuận lợi, khó khăn của giáo viên và học sinh khi giải toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2. – Thông qua đề tài giúp học sinh ham học toán từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của giờ học toán đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. – Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của bản thân. 3. Phạm vi và đối tượng của nghiên cứu – Phạm vi nghiên cứu: Các hoạt động giảng dạy và học tập với nội dung là giải toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2 ở trường Tiểu học. – Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2 trong quá trình học tập cách giải các bài toán có lời văn. 4. Phương pháp nghiên cứu – Phương pháp nghiên cứu lý luận. – Phương pháp quan sát. – Phương pháp điều tra, giáo dục. – Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. – Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 5. Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu Giúp học sinh nắm vững cách giải các bài toán có lời văn trong chương trình toán 2. Cụ thể là: – Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn về cộng, trừ, trong đó có bài toán về “nhiều hơn”, “ít hơn” một số đơn vị ; các bài toán đơn về nhân, chia (phép tính trong bảng nhân, chia phạm vi 5). – Nội dung dạy học “Giải toán có lời văn” ở lớp 2 được tăng cường học phương pháp dạy toán (cách tìm hiểu đề bài, cách giải quyết vấn đề, và cách

trình bày bài giải…). Ngoài ra học sinh còn được phát triển khả năng diễn đạt (diễn đạt bằng lời nói và viết các câu lời giải, hoặc trình bày một vấn đề…). – Nội dung dạy học “Giải toán có lời văn” được cấu trúc hợp lí, xen kẽ các mạch kiến thức khác, làm nổi bật mạch kiến thức số học. – Nội dung các bài toán có lời văn phong phú, đa dạng hơn và gần với thực tế đời sống xung quanh các em; Có các bài toán khi giải quyết cần đến kĩ năng đo đại lượng “cân, đo, đong, đếm” với các đơn vị mét, xăng-ti-mét, ki-lô-mét, ki-lô-gam, lít…thường gặp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày… – Cách trình bày một bài giải toán được hoàn chỉnh hơn. – Tích cực hóa vấn đề sử dụng phương pháp dạy học. – Điều tra thực trạng việc học tập của học sinh. – Vận dụng vào thực tiễn dạy học: Giải toán có lời văn ở lớp 2 bao gồm: + Bài toán về nhiều hơn. + Bài toán về ít hơn. + Các bài toán vận dụng trực tiếp ý nghĩa của các phép tính (được tích hợp trong các mạch kiến thức khác). 6. Tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề – Qua đề tài giúp các em học sinh nắm vững kiến thức khi giải các bài toán có lời văn. – Giúp giáo viên có thêm một vài kinh nghiệm và dạy tốt các bài toán có lời văn trong chương trình toán 2. 7. Cấu trúc luận văn Mở đầu Nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. Chương 2: Thực trạng tình hình của vấn đề rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. Chương 3: Những biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2.

Chương 4: Thực nghiệm sư phạm. Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục 8. Một số từ ngữ được viết tắt trong Luận văn

STT

Viết tắt

Viết nguyên văn

1

GV

Giáo viên

2

HS

Học sinh

3

SGK

Sách giáo khoa

NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 1. Một số đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học 1.4.

Những thay đổi của trẻ khi bắt đầu đi học

Trước khi bước vào trường phổ thông, trẻ đang phát triển để hoàn thiện các cấu trúc tâm lí của con người, bởi hoạt động chủ đạo là vui chơi mà chưa thể hiện được bất kì trẻ đang tiến vào bước ngoặc mới với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo . Hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo trong suốt thời kì mẫu giáo, nay những yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh để tiến tới giữ vị trí chủ đạo khi trẻ bắt đầu đến trường. Bước vào trường phổ thông là một bước ngoặc trong đời sống của trẻ. Đó là sự chuyển qua lối sống mới với những điều kiện hoạt động mới, chuyển qua những quan hệ với người lớn và bạn bè cùng tuổi. Khi đến trường trẻ là một học sinh đang thực hiện nghĩa vụ xã hội trao cho bằng hoạt động học tập nghiêm túc. Hoạt động tập làm thay đổi một cách cơ bản những động cơ của hoạt động trẻ, nó mở ra những nguồn phát triển mới của sức mạnh nhận thức và đạo đức của trẻ. Hoạt động học phải được xem là đối tượng để lĩnh hội sau đó, để trở thành phương tiện tiếp thu trí thức, kinh nghiệm khoa học. Hoạt động học bắt đầu nảy sinh ở lớp 1 và lớp 2, hình thành ở lớp 3 và dần định hình ở lớp 5. 1.5.

Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học

Tri giác của học sinh tiểu học mang tính chất đại thể ít đi sâu vào chi tiết và mang tính chất không chủ định . Khả năng phân tích một cách có tổ chức và khi tri giác ở học sinh các lớp đầu bậc Tiểu học còn yếu, các em thường thâu tóm sự vật

về toàn bộ, về đại thể để tri giác. Ví dụ : Các em khó phân biệt hình 5 cạnh với hình 6 cạnh. Tuy vậy ta cũng không nên nghĩ rằng các em chưa có khả năng phân tích để tách các dấu hiệu các chi tiết nhỏ của một đối tượng nào đó. Tri giác không chủ định vẫn chiếm ưu thế ở học sinh Tiểu học. Các em chưa tri giác đúng đơn vị, độ dài và còn nhìu khó khăn khi tri giác khoảng cách( học sinh chưa ước lượng đúng độ dài m và Km). Tri giác thời gian phát triể n chậm so với tri giác không gian. Chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế so với chú ý có chủ định. Những kích thích có cường độ mạnh vẫn là một trong những mục tiêu thu hút sức chú ý của trẻ. Trí nhớ của các em còn mang tính trực quan-hình tượng và được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ logic. Học sinh đầu cấp thường có khuynh hướng ghi nhớ máy móc bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần. Ở học sinh Tiểu học việc ghi nhớ các tài liệu trực quan hình tượng có hiểu quả nhất. Tư duy của trẻ mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức, dựa vào đặc điểm bên ngoài. Nhờ vào hoạt động học tập, tư duy mang dần tính khái quát.Hoạt động mang tính tổng hợp còn sơ đẳng, việc học Tiếng Việt và Toán giúp các em biết phân tích và tổng hợp. Trẻ thường gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả. Tưởng tượng còn tản mạn, ít có tổ chức, hình ảnh tưởng tượng thì đơn giản hay thay đổi. Tưởng tượng tái tạo từng bước hoàn thiện. 1.3

Đặc điểm nhân cách của học sinh Tiểu học

1.3.2

Tính cách của học sinh Tiểu học

Nét tính cách của học sinh Tiểu học mới hình thành chưa ổn định. Hành vi của trẻ mang tính xung động cao và ý chí còn thấp. Tính cách điển hình của trẻ là hồn nhiên và cả tin, trẻ thích bắt chước hành vi của những người xung quanh hay trên phim ảnh. Học sinh Tiểu học ở Việt Nam có thái độ và thói quen tốt với lao động.

1.3.2 Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học đã phát triển khá rõ nét từ nhu cầu tìm hiểu những sự vật hiện tượng riêng lẻ( lớp 1 và lớp 2), đến nhu cầu phát hiện những nguyên nhân, quy luật về các mối liên hệ, quan hệ ( lớp 3,4,5). Nhu cầu đọc sách phát triển cùng với việc phát triển kỉ xảo đọc. Cần phải hình thành nhu cầu nhận thức cho trẻ ngay từ sớm. 2.1.2 Đặc điểm đời sống tình cảm Đối tượng gây xúc cảm, tình cảm của các em gắn liền với trực quan, hình ảnh cụ thể. Học sinh Tiểu học rất dễ xúc cảm, xúc động và khó kìm hãm xúc cảm của mình. Tình cảm của học sinh Tiểu học còn mong manh, chưa bền vững, chưa sâu sắc. Sự chuyển hóa xúc cảm nhanh. Việc hiểu đặc điểm tâm lí học sinh giữ vai trò quan trọng trong quá trình dạy học. Nếu chúng ta tác động vào đối tượng mà không hiểu tâm lí của chúng thì cũng như đập búa vào một thanh sắt nguội. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên cần phải dựa vào những đặc điểm tâm lí đối tượng để lựa chọn và xây dựng những phương pháp dạy học mới mang lại hiệu quả như mong muốn. 2. 2.1.

Khái quát chương trình toán Tiểu học Sự giống nhau và khác nhau giữa 2 giai đoạn dạy học toán ở Tiểu học

giáo dục khác ( như những hiểu biết về tự nhiên và xã hội, giáo dục môi trường, giáo dục về an toàn giao thông…) được sự tích hợp với các nội dung của môn Toán theo các định hướng học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường gắn với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Ở cả 2 giai đoạn, học sinh đêu được chuẩn bị phương pháp tự học Toán dựa vào hoạt động tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Với sự trợ giúp của các đồ dùng học toán, của Sách giáo khoa…học sinh tự tập dợt, tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức mới, kết hợp học các nhân với học hợp tác trong nhóm, trong lớp, thực hiện học gắn với thực hành, vận dụng một cách linh hoạt dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên. Với cách chuẩn bị phương pháp tự học toán như trên, học sinh không chỉ biết cách tự học mà còn phát triển ngôn ngữ (nói, viết) để diễn đạt chuẩn xác, ngắn gọn và đầy đủ các thông tin để giao tiếp khi cần thiết; không chỉ bước đầu phát triển các năng lực tư duy( phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khói quát hóa đúng mức) mà còn từng bước hình thành tư duy phê phán, biết lựa chọn và tìm cách giải quyết hợp lí vấn để đã phát hiện được. Thời lượng dạy học Toán trong mỗi tiết, mỗi tuần lễ, mỗi năm học từ lớp 2 đến lớp 5 đều giống nhau(mỗi tiết học có thể kéo dai từ 35 đến 40 phút; mỗi tuần lễ có 5 tiết học Toán; mỗi năm có 175 tiết học Toán) riêng ở lớp 1, mỗi tuần lễ chỉ có 4 tiết học Toán Trong Sách giáo khoa toán từ lớp 1 đến lớp 5 thường có các dạng sau : tiết dạy học bài mới, tiết luyện tập chung, tiết thực hành, tiết ôn tập. Riêng tiết kiểm tra định kì chỉ giới thiệu trong sách giáo viên để giáo viên tham khảo. 2.1.2. Sự khác nhau giữa hai giai đoạn các lớp 1,2,3 và giai đoạn các lớp 4,5 của dạy học toán ở tiểu học. Giai đoạn các lớp 1,2,3 có các đặc điểm là: Việc dạy học cá kiến thức và kĩ năng cơ bản của môn Toán thường gắn với các sự vật, hiện tượng cụ thể, với sự trợ giúp đúng mức của các đồ dùng học tập, các vật thực, các mô hình trực quan, tranh ảnh,…học sinh chỉ nhận biết “cái toàn thể”, “cái riêng lẻ” chứ chưa nhận ra được các mối quan hệ, các tính chất quan trọng của sự vật, hiện tượng. Hầu hết các

kiến thức và kĩ năng được sắp xếp theo kiểu “đồng tâm mở rộng”, từ đơn giản và cụ thể đến phức tạp hơn, khái quát hơn và trừu tượng hơn. Giai đoạn các lớp 4,5 có các đặc điểm là: Việc dạy môn Toán vẫn tập trung vào các kiến thức và kĩ năng cơ bản nhưng ở mức sâu hơn, trừu tượng , khái quát hơn và tường minh hơn các lớp 1,2,3. Nhiều kiến thức có thể coi là trừu tượng, khái quát đối với các học sinh lớp 1,2,3 thì đến lớp 4,5 lại trở nên cụ thể, trực quan và thường được dùng làm chổ dựa để học các lớp 4,5 đã được nâng lên một bậc so với các lớp 1,2,3. Từ đầu lớp 4, học sinh có thể nhận biết và vận dụng một số tính chất của số, phép tính, hình học ở dạng khái quát và tường minh hơn so với lớp 3. Trong mỗi giai đoạn (nêu trên) đều có khoảng thời gian chuyển tiếp. Chẳng hạn, ở giai đoạn các lớp 1,2,3 thì khoảng thời gian đầu lớp 1 có sự chuyển tiếp từ giai đoạn xem vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ (ở các lớp mẫu giáo) sang giai đoạn xem học tập là hoạt động chủ đạo của trẻ, đến cuối lớp 3 lại có thời gian chuyển tiếp từ giai đoạn học tập cơ bản sang giai đoạn học tập sâu. Với vấn đề trên đòi hỏi giáo viên dạy Toán phải có phương pháp dạy và cách tổ chức dạy học phù hợp với năng lực của từng đối tượng học sinh. 2.2. Trình độ chuẩn của học sinh về giải toán có lời văn ở các lớp bậc tiểu học. * Lớp 1: – Nhận biết bước đầu về cấu tạo của bài toán có lời văn. – Biết giải các bài toán về thêm, bớt (giải bằng một phép cộng hoặc một phép trừ) và trình bày bài giải gồm: câu lời giải, phép tính, đáp số. * Lớp 2: – Biết giải và trình bày bài giải một số bài toán đơn (có một bước tính) về cộng, trừ trong đó có các bài toán về “nhiều hơn”, “ít hơn” một số đơn vị. – Biết giải và trình bày bài giải một số bài toán đơn về nhân, chia; Chủ yếu là các bài toán tìm tích của hai số trong phạm vi các bảng nhân 2,3,4,5 và các bài

Tóm lại, giải toán có lời văn từ lớp 1 đến lớp 5 được nâng cao dần từ đơn giản đến phức tạp và mỗi lớp có đặc điểm riêng. Lớp sau luôn có sự kế thừa, bổ sung và phát triển hơn các lớp trước. Chính điều đó đã tạo nên một mạch kiến thức xuyên suốt trong chương trình giải toán có lời văn ở tiểu học, nó thể hiện tính đồng tâm của chương trình toán ở tiểu học. 3. Một số phương pháp dạy học được sử dụng. 3.1. Phương pháp giảng giải Khái niệm: phương pháp giảng giải (hay thuyết trình) là phương pháp giảng dạy trong đó giáo viên dùng lời nói sinh động và chính xác để đưa ra vấn đề vừa giải thích nội dung vấn đề cho học sinh tìm hiểu và tiếp thu dễ dàng. Ưu điểm : Tiết kiệm thời gian, giáo viên có thể dễ tiến hành. Trong một thời gian ngắn có thể truyền thụ kiến thức cho học sinh. Nhược điểm : Thuyết trình bằng lời nói quá lâu khiến cho học sinh dễ thụ động, mệt mỏi. Nhất là đối với các em học sinh nhỏ. 3.2. Phương pháp đàm thoại Khái niệm: Phương pháp đàm thoại (hay hỏi đáp) là phương pháp giảng dạy trong đó giáo viên nêu vấn đề, đặt câu hỏi cho học sinh trả lời, trên cơ sở ấy giáo viên giúp học sinh rút ra kết luận. Ưu điểm: Phát huy được tính tích cực của học sinh, làm cho lớp thêm sinh động. Rèn luyện được năng lực tư duy, khả năng diễn đạt. Nhược điểm: Tốn nhiều thời gian. 3.3. Phương pháp trực quan Khái niệm: Phương pháp trực quan lá phương pháp giảng dạy dựa trên cơ sở những hình ảnh cụ thể: Hình vẽ, đồ vật và hình ảnh thực tế xung quanh để hình thành kiến thức cho học sinh.

Ưu điểm: Bổ sung vốn hiểu biết cho học sinh, cung cấp chỗ dựa cho hoạt động tư duy; giúp học sinh dễ chú ý để từ đó các em có thể nắm các tri thức trừu tượng một cách vững chắc. Đồng thời giúp học sinh phát triển khả năng tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng của các em. Nhược điểm: Không nên lạm dụng trực quan vì việc đó chẳng những làm tốn nhiều thời gian mà còn hạn chế khả năng hình thành các biểu tượng của các em. 3.4. Phương pháp thực hành luyện tập Khái niệm: Phương pháp thực hành luyện tập là phương pháp dạy học thông qua các hoạt động thực hành luyện tập của học sinh để giúp các em nắm vững các kiến thức và hình thành kĩ năng mới. Ưu điểm: Phát huy được tốt nhất tính độc lập của học sinh. Do đó đây là phương tiện tốt nhất để thực hiện nguyên lí giáo dục. Nhược điểm: Tốn nhiều thời gian. 4. Dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học Phần lớn nội dung trong SGK là dành cho các bài toán, vì các khái niệm và các quy tắc nói chung đều được giảng dạy thông qua các ví dụ bằng số và giải các bài toán. Kết quả học tập của môn Toán cũng được đánh giá thông qua kỹ năng tính toán vá giải các bài Toán. Do đó, trong môn Toán ở Tiểu học, việc dạy học giải toán có một vị trí quan trọng. 4.1 Ý nghĩa của việc dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học Trong môn toán ở tiểu học, các bài toán có lời văn có ý nghĩa rất quan trọng. – Việc giải toán giúp học sinh hình thành, củng cố, vận dụng kiến thức, kỹ năng các mảng kiến thức của toán học. – Giải toán từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận; rèn luyện cho học sinh thói quen làm việc có kế hoạch và khoa học; óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo; khả năng trình bày và diễn đạt ý kiến của bản

Bạn đang xem bài viết Skkn Rèn Luyện Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2 trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!