Xem Nhiều 3/2023 #️ Skkn Tạo Hứng Thú Học Tập Cho Học Sinh Thông Qua Khai Thác Một Bài Toán Hình Học 7 # Top 8 Trend | Caffebenevietnam.com

Xem Nhiều 3/2023 # Skkn Tạo Hứng Thú Học Tập Cho Học Sinh Thông Qua Khai Thác Một Bài Toán Hình Học 7 # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Tạo Hứng Thú Học Tập Cho Học Sinh Thông Qua Khai Thác Một Bài Toán Hình Học 7 mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Trang 1. MỞ ĐẦU 2 1.1. Lí do chọn đề tài 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu 3 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 4 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 4 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 4 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 2.3.1. Hướng dẫn học sinh giải bài toán mở đầu 5 2.3.2. Khai thác và phát triển bài toán mở đầu 6 a) Bài toán “Đầu cá” 6 a.1. Ứng dụng của bài toán “Đầu cá” 7 a.2. Bài toán đảo của Bài toán “Đầu cá” và ứng dụng 9 b) Bài toán “Thân cá” 10 b.1. Ứng dụng của bài toán “Thân cá” 11 b.2. Bài toán đảo của bài toán “Thân cá” và ứng dụng 12 c) Bài toán “Đuôi cá” 13 c.1. Ứng dụng của bài toán “Đuôi cá” 14 d) Bài toán “Con cá” 15 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 16 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 17 3.1. Kết luận 17 3.2. Kiến nghị 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 20 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh, đây là định hướng chung về phương pháp dạy học hiện nay. Để phát triển khả năng tư duy, vận dụng kiến thức đã biết để giải các bài toán khác cho học sinh thì giáo viên cần phải học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm từ việc giảng dạy của mình và có phương pháp hợp lý để truyền thụ kiến thức và phát huy tính sáng tạo cho học sinh. Thực tiễn dạy học hiện nay cho thấy rất rõ tình trạng học sinh học yếu môn toán, nhất là môn hình học ở trường còn khá phổ biến, học sinh đạt đến độ say mê để trở thành kĩ năng trong giải toán hình học còn hạn chế. Vì vậy, quá trình giảng dạy để đạt được kết quả tốt cần tạo ra hứng thú học tập và rèn kỹ năng cho học sinh có tầm quan trọng đặc biệt. Như chúng ta đã biết, sách giáo khoa Toán THCS rất quan tâm tới yếu tố vui học, gắn bài học với thực tế, nhằm tạo ra sự gần gũi thân thiết , gây hứng thú học tập, từ đó giúp học sinh đạt kết quả học tập cao nhất. Việc tạo được niềm say mê, hứng thú trong học tập bằng cách này hay cách khác chắc chắn sẽ đem lại kết quả học tập tốt hơn nhiều cho mỗi học sinh. Là những giáo viên giảng dạy môn Toán THCS, chúng ta có thể tự tạo ra hứng thú học tập cho học sinh từ những nhận xét, phát hiện nho nhỏ trong quá trình dạy học toán. Bài toán “Con cá” trong đề tài “ Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua khai thác một bài toán Hình học 7” cũng nhằm mục đích như vậy. 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu “Đường thẳng song song – Đường thẳng vuông góc” là một đơn vị kiến thức cơ bản của phần Hình học thuộc chương trình Toán lớp 7, bên cạnh học sinh nắm được kiến thức mà còn phải biết vận dụng nó để làm các dạng bài tập khác, đó là nội dung mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài này tôi viết dưới dạng chuyên đề, trong đó hướng dẫn học sinh giải và tìm tòi, phát triển bài toán đã biết rồi tìm lời giải cho bài toán mới. Trong quá trình viết đề tài tôi đã áp dụng hai phương pháp nghiên cứu là: Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm – Giáo viên nghiên cứu và hướng dẫn học sính giải một bài toán: Bài 13 – Sách Bài tập Toán 7, tập 1 – trang 99 (ta gọi đó là Bài toán mở đầu) – Từ việc giải bài tập 13 (trang 99, sách bài tập Toán 7 tập I), giáo viên hướng dẫn học sinh phát triển và chứng minh các bài tập tổng quát là: Bài toán “Đầu cá”, Bài toán “Thân cá” và bài toán “Đuôi cá”. Từ đó hình thành bài toán “Con cá” – Các kĩ năng, kiến thức học sinh sử dụng khi học về “Đường thẳng song song – Đường thẳng vuông góc” là: Về kiến thức: + Thế nào là hai đường thẳng song song, hai đường thẳng vuông góc + Các góc tạo bởi một dường thẳng cắt hai đường thẳng + Các góc tạo bởi một đường thẳng cắt hai đường thẳng song song + Tiên đề Ơc – lit + Ba tính chất từ vuông góc đến song song Về kĩ năng: + Kĩ năng vẽ hai đường thẳng song song hoặc vuông góc + Kĩ năng phân tích và suy luận + Kĩ năng tổng hợp, đánh giá và phán đoán kết quả 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a. Kết quả khảo sát thực trạng Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 7 ở những năm về trước tôi thấy khả năng tư duy và sự vận dụng kiến thức về “Đường thẳng song song – Đường thẳng vuông góc” để giải bài tập của học sinh còn rất nhiều hạn chế nên dẫn tới kết quả đạt được chưa cao, cụ thể: Năm học Số lượng HS bồi dưỡng Khả năng vận dụng Yếu TB Khá Giỏi SL % SL % SL % SL % 2016 – 2017 15 6 40 5 33,3 4 26,7 0 0 2017 – 2018 15 5 33,3 5 33,3 4 26,7 1 6,7 b. Nguyên nhân Như chúng ta đã biết để giải một bài toán thường tiến hành theo 4 bước: – Bước 1: Phân tích bài toán. – Bước 2: Xây dựng sơ đồ giải. – Bước 3: Thực hiện chương trình giải . – Bước 4: Kiểm tra và nghiên cứu lời giải. Tôi nhận thấy cần phải có những giải pháp thực sự hiệu quả, thiết thực để nâng cao chất lượng đội ngũ học sinh giỏi Toán. Xuất phát từ điều đó để kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi cao hơn, tôi đã định hướng cho học sinh phương pháp học tập, rèn luyện kỹ năng giải bài tập, linh hoạt vận dụng các kiến thức để giải bài tập một cách hợp lý; từ một bài toán mà có thể vận dụng để giải được nhiều bài toán khác. 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề – Giáo viên hướng dẫn học sính giải một bài toán: Bài 13 – Sách Bài tập Toán 7, tập 1 – trang 99 (ta gọi đó là Bài toán mở đầu) – Giáo viên hướng dẫn học sinh phát triển và chứng minh các bài tập tổng quát là: Bài toán “Đầu cá”, Bài toán “Thân cá” và bài toán “Đuôi cá”. Từ đó hình thành bài toán “Con cá” 2.3.1. Hướng dẫn học sinh giải bài toán mở đầu Trong sách Bài tập Toán 7, tập 1 (trang 99) có bài tập số 13, nội dung như sau: Trên hình vẽ, cho Ax Lời giải: Kẻ tia Cz Ta có: Cz By Suy ra: Cz Vì Ax (cặp góc so le trong) Vì By (cặp góc so le trong) Vậy : Lời nhận xét: Sau khi hướng dẫn cho học sinh cách giải bài toán trên, tôi nên yêu cầu học sinh nêu dự đoán về công thức tính số đo góc ACB trong trường hợp tổng quát khi biết số đo góc A và góc B. Từ kết quả đự đoán về công thức tính số đo góc ACB, tôi đưa ra bài toán tổng quát hơn mà tôi gọi là bài toán “Đầu cá” 2.3.2. Khai thác và phát triển bài toán mở đầu a) Bài toán “Đầu cá” Bài toán 1 (Bài toán “Đầu cá”) Cho hình vẽ, biết Ax Hướng dẫn giải: – Giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi mở để định hướng cho học sinh cách giải giống như Bài toán mở đầu (Kẻ tia Cz Lời nhận xét: Từ thực tiễn dạy học tôi thấy rằng khi giáo viên đưa ra Bài toán 1 và giới thiệu đó là bài toán “Đầu cá” thì tất cả các học sinh đang học khi đó đều rất hào hứng và ham thích tìm hiểu, tạo ra sự gần gũi và hứng thú học tập cao của học sinh. Bài toán “Đầu cá” cho biết mối quan hệ của và với không phụ thuộc vào số đo của các góc nếu Ax Mấu chốt của lời giải bài toán “Đầu cá” này là kẻ thêm đường phụ Cz song song với Ax (hoặc By) Sau khi thực hiện xong bài toán 1 (Bài toán Đầu cá) tôi đưa ra các bài tập có hình vẽ tương tự bài tập 1 như tính số đo của 1 góc khi biết hai góc còn lại nhằm khắc sâu công thức và cùng đồng thời kiểm tra mức độ vận dụng kiến thức vừa học của học sinh Đối với học sinh lớp 7 mới tập dượt chứng minh hình học, nhất là với các kiến thức ở chương I – Đường thẳng vuông góc – Đường thẳng song song, thì đây là một bài toán khá hay. Khai thác bài toán, ta có nhiều bài toán tương tự khá thú vị. a.1. Ứng dụng của bài toán “Đầu cá” Bài 1 (bài 57, trang 104, SGK Toán 7, tập 1) Cho hình vẽ (a Hướng dẫn giải: – Ta tính được , sau đó sử dụng kết quả của bài toán “Đầu cá” suy ra x = 860 Bài 2 (bài 3, trang 91, SGK Toán 7, tập 2) Cho hình vẽ, biết a Hướng dẫn giải: – Từ kết quả bài toán 1, suy ra: 440 + (1800 – 1320) = 920 Bài 3 Cho hình vẽ, tính ? Hướng dẫn giải: Bước 1: Chứng minh Bx Bước 2: Sử dụng kết quả của bài toán “Đầu cá” suy ra = 360 Bài 4 Cho hình vẽ, biết Ax Hướng dẫn giải: Kẻ tia Cz Bài 5 Cho hình vẽ, biết Ax Hướng dẫn giải: Kẻ Cz Lời nhận xét: Sau khi hướng dẫn cho học sinh làm các bài tập vận dụng của bài toán “Đầu cá”, tôi đặt ra câu hỏi ngược lại cho học sinh là “ nếu vẫn là hỉnh vẽ như của bài toán 1 nhưng giả thiết lại cho thì liệu Ax có song song với By không? ” và từ đó đưa ra bài toán đảo của bài toán “Đầu cá” a.2. Bài toán đảo của Bài toán “Đầu cá” và ứng dụng Bài toán 2 (Bài toán đảo của Bài toán “Đầu cá”) Cho hình vẽ, biết . Chứng minh: Ax Lời giải: Kẻ: Cz Vì Cz Mà: Suy ra: (1) Theo giả thiết: (2) Từ (1) và (2) suy ra: Mà và là hai góc ở vị trí so le trong, từ đó suy ra: Cz Từ (a) và (b) suy ra: Ax Lời nhận xét: Như vậy, ở bài toán 2 tôi đã đưa ra bài toán đảo của bài toán “Đầu cá”, nhằm mục đích phát triển tư duy toán học của học sinh, biết cách lật ngược lại vấn đề để khác sâu kiến thức và qua đó tìm ra tri thức mới. Mấu chốt của lời giải bài toán 2 này là kẻ thêm đường phụ Cz song song với Ax (hoặc By) Sau khi giới thiệu và hướng dẫn học sinh chứng minh bài toán ngược lại của bài toán “Đầu cá”, tôi tiếp tục cho học sinh vận dụng kết quả của Bài toán 2 để nhận biết các cặp đoạn thẳng song song hoặc vuông góc bằng các hình vẽ tương tự để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Ví dụ 1: Cho hình vẽ, hai tia Bx và Cy có song song với nhau không? Vì sao? Ví dụ 2: Cho hình vẽ, tia Bx và đường thẳng d có vuông góc với nhau không? Lời nhận xét: – Ở buổi học tiếp theo, tôi tiếp tục giới thiệu Bài toán “Thân cá” b) Bài toán “Thân cá” Bài toán 3 (Bài toán “Thân cá”) Cho hình vẽ, biết Ax Hướng dẫn giải: Cách 1: Kẻ tia đối Ax’ của tia Ax và tia đối By’ của tia By. Sử dụng kết quả của bài toán “Đầu cá” ta có: = 3600 Cách 2: Kẻ Cz Lời nhận xét: Sau khi thực hiện xong Bài toán 3 (Bài toán “Thân cá”) tôi đưa ra các bài toán có hình vẽ tương tự Bài tập 3 như tính số đo của 1 góc khi biết hai góc còn lại nhằm khắc sâu công thức và cùng đồng thời kiểm tra mức độ vận dụng kiến thức vừa học của học sinh b.1. Ứng dụng của bài toán “Thân cá” Ví dụ 1: Cho hình vẽ, biết Bx Gợi ý: Sử dụng kết quả của Bài toán “Thân cá”, ta tính được Ví dụ 2: Cho hình vẽ, tính góc B ? Gợi ý: Bước 1: Chứng minh Bx Bước 2: Sử dụng kết quả của bài toán “Thân cá” suy ra = 1450 Lời nhận xét: Sau khi hướng dẫn cho học sinh làm các bài tập vận dụng của bài toán “Thân cá”, tôi đặt ra câu hỏi ngược lại cho học sinh là “ Nếu vẫn là hỉnh vẽ như của Bài toán 3 nhưng giả thiết lại cho thì liệu Ax có song song với By không, và từ đó đưa ra bài toán đảo của bài toán “Thân cá” b.2. Bài toán đảo của bài toán “Thân cá” và ứng dụng Bài toán 4 (Bài toán đảo của bài toán “Thân cá”) Cho hình vẽ, biết: Chứng minh rằng: Ax Hướng dẫn giải: Kẻ Cz Mà: Suy ra: Cz Mà: Cz Suy ra: Ax Lời nhận xét: Sau khi giới thiệu và hướng dẫn học sinh chứng minh bài toán ngược lại của bài toán “Thân cá”, tôi tiếp tục cho học sinh vận dụng kết quả của Bài toán 4 để nhận biết các cặp đoạn thẳng song song hoặc vuông góc bằng các hình vẽ tương tự để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Ví dụ 1: Cho hình vẽ, hai tia Bx và Cy có song song với nhau không? Vì sao? Gợi ý: Bước 1: Ta tính được: Bước 2: Sử dụng kết quả của Bài toán đảo của bài toán “Thân cá, suy ra: Bx Ví dụ 2: Cho hình vẽ, tia Cy và đường thẳng d có vuông góc với nhau không? Gợi ý: Bước 1: Tính được Bước 2: Ta tính được: Bước 3: Sử dụng kết quả của Bài toán đảo của bài toán “Thân cá”, suy ra: Bx Bước 4: Vì mà Bx c) Bài toán “Đuôi cá” Lời nhận xét: Sau khi học bài “Tổng ba góc trong một tam giác” của chương II – Toán 7, nếu thay đổi giả thiết của bài toán “Đầu cá”: Ax không song song với By thì ta có bài toán sau: Bài toán 5 (Bài toán “Đuôi cá”) Cho hình vẽ. Chứng minh rằng: Hướng dẫn giải: Kẻ tia MC, sử dụng tích chất góc ngoài của tam giác, ta có: và Kẻ tia MC, sử dụng tích chất góc ngoài của tam giác, ta có: Suy ra: c.1. Ứng dụng của bài toán “Đuôi cá” Ví dụ 1: Cho hình vẽ, tính góc A ? Gợi ý: Sử dụng kết quả của Bài toán “Đuôi cá”, ta tính được: Ví dụ 2: Cho hình vẽ, tính góc D ? Gợi ý: Sử dụng kết quả của Bài toán “Đuôi cá”, ta tính được: Ví dụ 3: Cho hình vẽ, tính và ? Gợi ý: Sử dụng kết quả của Bài toán “Đuôi cá”, ta tính được: ; Lời nhận xét: – Kết hợp các bài toán trên, ta được bài toán con cá hoàn chỉnh: d) Bài toán “Con cá” Bài toán 6 (Bài toán “Con cá”) Cho hình vẽ, biết AB//CD. Tính góc x, y, z ? A B C D Hướng dẫn giải: – Sử dụng kết quả của 3 bài toán Đầu cá, Thân cá và Đuôi cá – Kết quả: x = 750 ; y = 1550; z = 900 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường + Học sinh được rèn luyên khả năng tư duy và kỹ năng giải toán, đặc biệt học sinh biết kiểm tra và nghiên cứu lời giải, biết vận dụng linh hoạt trục căn thức ở mẫu vào giải toán cũng như vận dụng một bài toán đã biết về giải bài toán mới. + Học sinh biết khai thác bài toán, sáng tạo trong các tình huống mới và mang lại cho các em hứng thú tích cực trong học tập và yêu thích bộ môn toán. Kết quả khảo sát: Năm học Số lượng HS bồi dưỡng Khả năng vận dụng Yếu TB Khá Giỏi SL % SL % SL % SL % 2018 – 2019 15 0 0 4 26,7 5 33,3 6 40 Với kết quả thu được như trên, tôi càng vững tin hơn trong công tác dạy học của mình, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Từ một bài toán ban đầu có sử dụng kiến thức về “Đường thẳng song song và đường thẳng cắt nhau”, tôi đã khai thác, vận dụng để giải các bài tập khác trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán lớp 7. Từ khi áp dụng đề tài này vào thực thế dạy học, tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Một là: Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên cần hệ thống, phân loại bài tập thành từng dạng. Giáo viên xây dựng từ kiến thức cũ đến kiến thức mới, từ cụ thể đến tổng quát, từ dễ đến khó và phức tạp, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Hai là: Giáo viên cần phát huy, chú trọng tính chủ động tích cực và sáng tạo của học sinh từ đó các em có nhìn nhận bao quát, toàn diện và định hướng giải toán đúng đắn. Ba là: Cần tập cho học sinh suy luận và sáng tạo, phát hiện những bài toán mới, những vấn đề mới, xuất phát từ những bài toán đã biết. 3.2. Kiến nghị Trong những năm qua, nhà trường THCS Nguyễn Bá Ngọc luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao và chăm lo về mọi mặt đặc biệt là công tác chuyên môn, vì thế đã có nhiều chuyển biến tích cực và có những thành công nhất định. Song bên cạnh đó để thành công hơn và hoàn thành tốt được nhiệm vụ thì tôi xin đề xuất với ngành một số vấn đề sau: – Thường xuyên tổ chức hội thảo, tập huấn về những chuyên đề, đặc biệt là nhưững chuyên đề về: Đổi mới PPDH môn Toán; Nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán; Nâng cao chất lượng học sinh thi vào lớp 10 môn Toán – Quan tâm nhiều hơn nữa đến những trường ở trên địa bàn khó khăn. Mọi dòng sông lớn đều bắt nguồn từ những con suối nhỏ, mọi bài toán khó đều khởi nguồn từ những bài toán đơn giản hơn. Vì vậy để học giỏi môn Toán thì không những người học cần phải nắm vững các bài toán cơ

Toán Đố Vui, Đố Vui Toán Học (Dành Cho Học Sinh Lớp 6 Đến 9)

Câu đố toán học là câu đố phải dùng kiến thức toán để giải, câu đố toán học cũng là dạng toán đố nhưng là toán đố vui. Trong các bài tập, bài thi thầy cô không ra câu đố toán học Tuy nhiên, câu đố toán học thường được xuất hiện trong các math-games hay game shows.

Thí dụ: trong game show Đường lên đỉnh Olympia cách đây đã lâu lắm rồi, có câu đố:

111111111 x 111111111 bằng bao nhiêu? Câu này nếu gặp học sinh lớp 6 khá giỏi môn toán thì sẽ trả lời đáp số ngay lập tức. Nhưng bữa đó tôi thấy các thí sinh đều lúng túng, tôi không nhớ có trả lời được hay không nhưng nhớ là hội trường hồi hộp theo dõi bởi không ai trả lời được ngay, cuối cùng đáp số mới được (thí sinh hay giám khảo ?) đưa ra.

1. Lâm có một quyển truyện tranh cũ có 120 trang. Nhưng vì để lâu ngày nên bị mọt ăn mất một số trang. Các trang bị mọt ăn là 18, 32, 81 và 105.

Hỏi quyển sách của Lâm còn lại bao nhiêu trang?

(thời gian trả lời 1 phút)

Giải như sau:

Nếu bị mất trang 18 cũng là bị mất trang 17.

Nếu bị mất trang 32 nghĩa là cũng bị mất trang 31

………v.v………..

Như vậy quyển sách của Lâm bị mất tổng cộng 8 trang.

Vậy quyển sách đó còn lại: 120 – 8 = 112 trang.

2. Trò chơi bốc lá bài, hay que diêm hoặc có thể là đi Số ô trong một dãy ô là trò chơi có tính toán.

Thí dụ 1:Có 21 lá bài. Hai người chơi lần lượt mỗi người bốc từ 1 đến 3 lá. Ai bốc được lá cuối cùng thì thắng cuộc. Hỏi phải chơi sao để chắc thắng?

Ta thấy rằng để thắng cuộc người chơi phải bốc được lá bài thứ 21. Mỗi người bốc ít nhất 1 nhiều nhất 3 nên mỗi lượt nhiều nhất là bốc 1+3=4 lá . Do đó người muốn thắng phải bốc được lá bài thứ 21, 17, 13, 9, 5 và 1.

Vậy qui luật để thắng cuộc người ta nên bốc trước và bốc 1 lá bài đầu tiên. Sau đó mỗi lần bốc thì bốc số lá bài bằng hiệu của 4 và số lá bài người kia bốc.

Thí dụ 2: Có 25 que diêm, Hai người chơi lần lượt bốc từ 1 đến 4 que. Ai lấy được que cuối cùng thì thắng cuộc. Hỏi để chắc chắn thắng cuộc ta phải chọn cách chơi như thế nào?

Giải: mỗi lượt cả hai người bốc nhiều nhất là 1+4 =5 que. Do đó để chắc thắng ta phải bốc được que thứ 25, 20, 15, 10,5.

Vậy để chắc thắng ta bốc sau và bốc cho được que thứ 5 , sau đó bốc số que bằng hiệu của 5 với số que người kia bốc.

Thí dụ 3: Trên bàn có 108 que diêm, hai người lần lượt bốc, mỗi lần chỉ từ 1 đến 4 que . Để thắng cuộc ta phải bốc thế nào?

Vì mỗi lượt đi, tổng số que hai ngừi bốc được nhiều lắm là 1+4 = 5 que.

Lấy 108 : 5 dư 3 . Do đó để thắng cuộc ta phải giành quyền bốc trước và bốc ngay 3 que.

Như vậy để chắc thắng ta bốc trước số que bằng số dư của tổng số que với tổng số que lớn nhất của mỗi lượt đi. Sau đó ta bốc số que bằng hiệu của tổng số que lớn nhất trong mỗi lượt đi của hai ngưới và số que của người kia vừa đi

Nếu phép chia không có số dư thì ta để người kia giành quyền đi trước. Liền sau đó ta bốc số que bằng hiệu của tổng số que lớn nhất mà hai người đi trong mỗi lượt với số que người kia vừa đi.

Thí dụ 4: Có 125 que diêm trên bàn. hai người lần lượt bốc từ 1 đến 4 que. Ai bốc được que cuối cùng thì thắng cuộc.

Để chắc thắng ta chơi như sau.

Tổng số que nhiều nhất mỗi lượt đi của hai người là 1+4 =5 Mà 125: 5 không có dư. vậy ta nhường ngừơi kia đi trước. Sau đó ta bốc que thứ 5 , tức là bốc số que bằng hiệu của 5 với số que mà người kia vừa bốc.

Thí dụ 5: Trên bàn có 100 que diêm, hai người lần lượt bốc. Nhiều nhất 3 que, ít nhất 1 que. Ai bốc được que] cuối cùng thì thua cuộc. Để chắc thắng ta chơi thế nào?

Tương tự như trên, nhưng vì bốc que cuối cùng thì thua, tức là ta phải bốc được que thứ 99 mới thắng cuộc, nên ta giả sử chỉ có 99 que. Lấy 99 chia 4 ta thấy dư 3. Nên giành quyền bốc trước và bốc ngay 3 que, sau đó ta bốc số que bằng hiệu của 4 với số que người kia vừa bốc

Tổng số que mỗi lượt bốc: 1+3 =4.

Hy vọng với vài thí dụ trên các bạn tự nghĩ ra số que, hay lá bài khác để chơi với các nhóc.

Bạn vận dụng cách tối vừa trình bày để tìm chiến thuật chơi chắc thắng Cho trò chơi sau:

1. Trên bàn có 108 que diêm, hai người lần lượt bốc. Mỗi người bốc từ 1 đến 4 que. Ai bốc được que cuối cùng thì thắng cuộc.

2. Trên bàn có 110 que diêm, hai người lần lượt bốc. Mỗi người bốc từ 1 đến 5 que. Ai bốc được que cuối cùng thì thua cuộc

Skkn Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI: “GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 1”

trẻ đi vào thế giới diệu kì của Toán học, rồi mai đây các em lớn lên sẽ trở thành một bác sĩ giỏi, một nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống, sản xuất… được sử dụng cộng nghệ hiện đại như máy tính xách tay. Nhưng các em không bao giờ quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết 1, 2, 3… học các bài toán đầu tiên, các em không thể quên vì đó là những kỉ niệm đẹp nhất của đời người và hơn thế nữa là những con số, những phép tính đơn giản ấy cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Là một giáo viên dạy lớp 1, tự bản thân tôi nhận thấy môn Toán là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là học sinh lớp 1 lại càng quan trọng hơn. Môn Toán cung cấp những kiến thức cơ bản về số, những phép tính trong đại lượng và khái niệm cơ bản về hình học, bên cạnh đó nó còn góp phần vào phát triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích cho các em trí tưởng tượng, óc khám phá, hình thành nhân cách cho các em. Thấy được tầm quan trọng của môn Toán nên tôi đã đi sâu tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu ra những biện pháp mới để giảng dạy môn Toán thật tốt giúp học sinh chủ động tiếp thu môn Toán một cách nhẹ nhàng thông qua hoạt động học tập. Để “học mà chơi – chơi mà học”, đó cũng là nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học nói chung và dạy học môn Toán nói riêng. Mong các em trở thành những con người có ích giúp cho “non sông Việt Nam trở nên tươi sáng hơn, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quộc năm châu” như trích thư của Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đã gửi lại. II. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 1 đặc biệt là học sinh lớp 1A3 – trường Tiểu học Ba Trại. III. Mục đích nghiên cứu:

Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán để tìm ra phương pháp giúp giáo viên dạy môn Toán cho học sinh lớp 1 được tốt hơn. Cụ thể: + Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của một bài toán có lời văn lớp 1. + Đọc hiểu – phân tích – tóm tắt bài toán. + Giải toán đơn về thêm (bớt) bằng một phép tính cộng (trừ). + Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số. + Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau. IV. Phạm vi nghiên cứu: –

Sách giáo khoa Toán 1.

Sách giáo viên Toán 1.

Chuẩn kiến thức kĩ năng Toán lớp 1.

Vở bài tập Toán của học sinh khối 1 và học sinh lớp 1A3.

Các phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học.

Tập thể giáo viên khối 1 trường Tiểu học Ba Trại.

V. Thời gian nghiên cứu: – Từ tháng 10 – 2012 đến 4 – 2013. VI. Phương pháp nghiên cứu: – Phương pháp điều tra. – Phương pháp trắc nghiệm.

– Phương pháp trực quan. – Phương pháp đàm thoại, gợi mở. – Phương pháp luyện tập. PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG. Chương I: Cơ sở lý luận. I. Vị trí và yêu cầu của môn Toán ở Tiểu học. 1. Vị trí của dạy học môn Toán. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vai trò quyết định vì: – Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, rất cần thiết cho người lao động, để học tiếp các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp môn Toán ở Trung học. – Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó học sinh co phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh, biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. – Môn Toán góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ. Suy luận, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo. Góp phần quan trọng vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết, quan trọng của người lao động. 2. Nhiệm vụ của dạy học môn Toán. a. Nhiệm vụ chung: Môn Toán ở Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh:

– Hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, đơn giản, có nhiều ứng dụng trong đời sống về số học các số tự nhiên, các số thập phân bao gồm cả cách đọc, cách viết, so sánh các số tự nhiên…. – Có những đóng góp ban đầu, thiết thực về các đại lượng cơ bản như độ dài, khối lượng thời gian, …. Biết sử dụng các dụng cụ để thực hành đo lường, biết ước lượng các số đo đơn giản. – Biết nhận dạng và bước đầu biết phân biệt một số hình học thường gặp. – Biết cách giải và trình bày giải với những bài toán có lời văn. Nắm chắc, thực hiện đúng quy trình bài toán. – Thông qua những hoạt động học tập toán để phát triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng nhất như: so sánh, phân tích, tổng hợp… – Hình thành phong cách học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập, sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin. b. Nhiệm vụ cụ thể: – Kiến thức: Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, phép cộng, phép trừ không nhớ trong phạm vi 100, độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20cm, về tuần lễ và ngày trong tuần, đọc giờ đúng trên đồng hồ, một số hình học, bài toán có lời văn…. – Kĩ năng: Học sinh được rèn luyện các kĩ năng thực hành: đọc, đếm, so sánh, ghi lại càc đọc các số, giá trị vị trí các chữ số, cấu tạo thập phận của số cps hai chữ số trong phạm vi 100. Thực hành nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ đoạn thẳng có độ dài đến 10cm, giải một số bài toán đơn về cộng, trừ, bước đầu biết diễn đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và thực hành.

Tập dượt, so sánh, phân tích, tổng hợp, trìu tượng hoá, khát quát hoá trong phạm vi của nội dung chương trình toán lớp 1. 3. Những yêu cầu cơ bản của việc dạy học môn Toán ở lớp 1. a. Yêu cầu: * Kiến thức, kĩ năng: – Biết đọc, viết, so sánh các số tự nhiên từ 0 đến 10. – Thuộc các bảng tính đã học. Biết thực hiên các phép tính cộng, trừ không nhớ trong phạm vi 100. Biết tên gọi, kí hiệu đơn vị đo độ dài và biết dùng dụng cụ đo độ dài, biết xem ngày tháng trong một số trường hợp đơn giản. Nhận dạng và gọi đúng tên, dùng thước để vẽ các hình đã học. Giải và trình bày bài toán có lời văn. b. Trình độ tối thiểu cần đạt: – Học sinh phải đọc , viết, so sánh được các số trong phạm vi 100. – Thực hiện phép tính: nhanh, chính xác, nắm chắc thứ tự khi thực hiện phép tính các nhiều dấu phép tính cộng, trừ. – Tìm thành phần chưa biết của phép tính ở mức độ đơn giản (dạng điền số thích hợp vào ô trống). – Đọc, biết vẽ, đo đoạn thẳng có độ dài cho trước (cm). Xem lịch, đồng hồ. – Yếu tố hình học: Nhận biết, gọi đúng tên điểm, đoạn thẳng các hình đã học. – Giải và trình bày bài giải các bài toán có lời văn không quá 3 bước với cấu trúc đơn giản. II. Nội dung chương trình dạy Toán lớp 1.

Môn Toán và môn Học vần (kì II chuyển sang Tập đọc) chiếm 3 phần thời gian, số tiết so với thời gian môn học khác. Mỗi tiết 35-40 phút được chia làm 4 giai đoạn. – Giai đoạn 1: Từ tuần 1 đến tuần 6. Học sinh được học các số đến 10, hình vuông, hình tròn, hình tam giác. – Giai đoạn 2: Từ tuần 7 đến tuần 17. Học sinh học về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10. Giai đoạn này lần đầu tiên học sinh được làm quen với dạng toán: nhìn hình vẽ, nêu thành bài toán ở mức độ đơn giản rồi nêu phép tính. – Giai đoạn 3: Từ tuần 18 đến hết tuần 28. Giai đoạn này học sinh học về các số trong phạm vi 100, đo độ dài, giải bài toán. Đặc biệt là tiết 84 tuần 21 học sinh học về giải toán có lời văn. – Giai đoạn 4: Từ tuần 29 đến hết tuần 35. Học sinh học về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 100, đo thời gian. Giai đoạn này học sinh thường xuyên được rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn. 1.Nguyên tắc dạy học Toán. -Kết hợp dạy toán với giáo dục: Thông qua quá trình hình thành kiến thức, rèn luyện kĩ năng môn Toán mà rèn luyện con người góp phần thực hiện mục tiêu môn Toán ở Tiểu học. – Phương pháp học tập chủ động, tích cực, phương pháp suy nghĩ có căn cứ, có kế hoạch, có ưu tiên. – Các đặc tính cần thiết của người lao động mới ( cần cù, kiên trì, vượt khó khăn, cẩn thận, yêu thích chân lí, cái hay, cái đẹp, trung thực, . . . .

– Đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức: Dạy học Toán phải chính xác, phải giúp học sinh thấy nguồn gốc thực tế của kiến thức, mối quan hệ giữa các kiến thức, tính thiết thực của kiến thức. – Đảm bảo tính trực quan, tính tích cực, tự giác: Kiến thức Toán trừu tượng, khái quát. Muốn học sinh hiểu, dễ học phải đảm bảo tính trực quan. Sử dụng trực quan đúng mức sẽ góp phần phát triển tư duy trừu tượng học sinh. – Đảm bảo tính hệ thống và tính vững chắc: Môn Toán là một trong những môn có tính hệ thống chặt chẽ, muốn vậy phải: Xác định rõ vị trí của từng bài học ở từng chương, từng lớp trong toàn bộ chương trình. Th  ường xuyên quan tâm đến hệ thống kiến thức từng bài học trong từng giai đoạn học.  Sự vững chắc của kiến thức và kĩ năng môn Toán đòi hổi phải củng cố, ôn tập thực hành thường xuyên, tập trung vào những nội dung cơ bản nhất của chương trình. – Đảm bảo sự cân đối giữa học và hành, kết hợp dạy học với tính ứng dụng trong đời sống: cần coi trọng phương pháp thực hành, coi trọng rèn luyện các kĩ năng thực hành, hết sức hạn chế các phương pháp làm cho học sinh ít hoạt động. Vì vậy cần chọn các phương pháp để góp phần giúp học sinh nhận biết được nguồn gốc thực tế và khả năng vận dụng trong đời sống hàng ngày của các nội dung trừu tượng của môn Toán. 2. Phương pháp dạy học Toán.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC PHÂN MÔN TOÁN LỚP 1 I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC TOÁN Ở CÁC TRƯỜNG TIÊU HỌC. – Trong những năm trở lại đây, việc dạy học Toán cho học sinh Tiểu học được Bộ Giáo Dục, Sở Giáo Dục, Phòng Giáo Dục, đặc biệt là Ban giám hiệu, các thầy cô và các

bậc phụ huynh rất quan tâm. Chính vì thế, mục tiêu rèn Toán cho học sinh lớp 1 cũng như lớp 2 được đặt lên hàng đầu. – Năm học 2012-2013 là năm trọng tâm của việc thực hiện chuyên đề đối với các phân môn của lớp 1, đặc biệt là môn Toán. Chuyên đề Toán đựơc sự chỉ đạo quan tâm sắt xao của Sở Giáo Dục do học sinh yếu môn Toán từ những năm học trước vẫn còn chiếm tỉ lệ cao trên toàn quốc cũng như trong địa bàn thành phố Hà Nội.Do vậy chuyên đề Toán năm nay được thực hiện 2 lần trong năm lần lượt theo trình tự các cấp: + Chuyên đề lần thứ nhất diến ra vào tháng 9: ( Tiết 19: Bài số 9) tại Sở Giáo Dục Hà Nội, sau đó lại được triển khai lại một lần nữa tại PGD các quận, huyện. Lần thứ 3 diễn ra tại các trường do những giáo viên đi tiếp thu chuyên đề về truyền thụ lại. + Tương tự như vậy chuyên thứ hai về môn Toán lại được triển khai vào tháng 4 năm học 2012- 2013.(Tiết 85: Giải toán có lời văn). + Ngoài ra được sự hướng dẫn của Bộ Giáo Dục các nhà trường đã thực hiện rất tốt việc” Đổi mới đánh giá trong dạy học Toán lớp 1″. Toàn bộ học sinh khối lớp 1 năm học 2012- 2013 trở về sau phải được học 10 buổi trên tuần. – Cụ thể trong các nhà trường còn có sự quan tâm đặc biệt đối với giáo viên và học sinh lớp 1 như: + Mỗi giáo viên và học sinh được trang bị 1 bộ thực hành học Toán. + Giáo viên được tham dự đầy đủ những chuyên đề về Toán và cuộc thi giáo viên dạy giỏi và thao giảng ít nhất 2 lần trên năm tại cấp cơ sở để học hỏi và trau dồi kiến thức, trau dồi kinh nghiệm. Thống nhất phương pháp dạy đồng bộ trong khối xây dựng tiết dạy tốt góp phần nâng cao chất lượng giáo dục

+ Học sinh được tạo điều kiện tốt nhất để tham dự các cuộc thi ” giải toán trên mạng Internet ” cấp trường và cấp huyện, cuộc thi “khảo sát chất lượng học sinh giỏi” cấp trường diễn ra đều đặn vào cuối tháng 3 hàng năm – Hàng tuần, học sinh đều có tiết học để luyện thêm Toán vào buổi chiều. – Nhà trường tổ chức các buổi ngoại khoá Toán cho học sinh từng khối lớp riêng. –

Tổ chức các sân chơi bằng cách giao lưu giữa các trưòng bạn trên cùng địa bàn

để học sinh có dịp mở rộng kiến thức về môn Toán. II. KHẢ NĂNG VÀ THỰC TRẠNG DẠY – HỌC TOÁN CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH TIỂU HỌC HIỆN NAY. 1. Về giáo viên: – Việc soạn giáo án chuẩn bị cho việc dạy trên lớp đối với 1 số giáo viên cũng như việc cho điểm và nhận xét trong vở học sinh cũng chưa được chu đáo việc dạy Toán của giáo viên ở các lớp Tiểu học phải được tiến hành theo hai khâu cơ bản sau: – Soạn giáo án Toán: – Thực hiện giáo án trong giờ dạy trên lớp. + Đồ dùng dạy học : còn sơ sài , tạm bợ, cũ, đồ dùng trực quan chưa bắt mắt để thu hút học sinh vào tiết học + Giáo viên ngại soạn giáo án Power Point và dạy trình chiếu trong khi trường đã đầy đủ các phương tiện hỗ trợ cho giáo viên khi giảng dạy. + Phương pháp dạy học: Chưa sử dụng nhiều phương pháp dạy học như : phương pháp phương pháp trực quan, so sánh, phương pháp luyện tập mà chỉ sử dụng phương pháp gợi mở qua quýt rồi cho học sinh làm bài tập rồi chuyển sang tiết khác .Giáo viên

nghĩ :” Giải Toán có lời văn” chỉ cần thiết khi học sinh bước vào “tiết 84- Bài toán có lời văn” nên chỉ chú trọng vào dạy kĩ năng đặt tính, làm tính của học sinh mà không nghĩ đó là những bài toán làm bước đệm cho học sinh được bắt đầu từ” tiết 26: Phép cộng trong phạm vi 3″ tuần 7 cho đến: “tiết 63: Luyện tập” tuần 16 mới kết thúc giai đoạn chuẩn bị chính thức bước vào giai đoạn học “Giải Toán có lời văn” + Trình bày bảng: chưa khoa học, chữ viết mẫu xấu, chưa tỉ mỉ. Môn Toán rất khô và cứng vì thế, chưa tạo được sự hững thú khi dạy và học phân môn này, ở trong một số trường khi đi kiểm tra, tình trạng như trên vẫn còn tồn tại dẫn đến hiệu quả trong tiết Toán chưa đạt được như mong muốn . 2. Về học sinh. – Vào lớp 1, lần đầu tiên trẻ được tiếp xúc với toán học với tư cách là 1 môn học, rèn luyện với các thao tác tư duy như là so sánh, quan sát, phân tích,. . . .Thật là một thử thách lớn đối với học sinh trong khi trẻ đọc chưa thông, viết chưa thạo. Làm sao để trẻ tập trung chú ý vào để học. Chủ yếu do 1 số nguyên nhân sau: + Tư duy của học sinh còn mang tính trực quan là chủ yếu. + Đọc được đề bài nhưng chưa hiểu đề bài, chưa biết thế nào là tìm hiểu bài toán có lời văn. + Không biết tìm hiểu bài toán như: bài toán cho biết gì?Bài toán hỏi gì? + Không hiểu các thuật ngữ toán học như: thêm, bớt, cho đi, mua về, bay đi, chạy đến,. . . và câu hỏi: Có tất cả bao nhiêu? Còn lại bao nhiêu? . . . . + Không biết tóm tắt bài toán, lúng túng khi nêu câu lời giải, có khi học sinh nêu lại câu hỏi của bài toán. Không hiểu thuật ngữ toán học nên không biết nên cộng hay trừ dẫn đến nói sai, viết sai phép tính, sai đơn vị, viết sai đáp số.

+ Một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không biết trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. + Khi về nhà học sinh lại chưa được bố mẹ quan tâm đến bài vở của con do đi làm vất vả hoặc muốn quan tâm nhưng không biết dạy con sao cho đúng phương pháp dẫn đến giáo viên rất vất vả khi dạy đến dạng bài toán có lời văn.

– Đồng chí có thích dạy Toán không? – Trong tiết dạy giải Toán có lời văn đồng chí thường chú trọng những bước nào? Vì sao? – Đồng chí thường sử dụng phương pháp nào trong tiết dạy Toán đó? – Trong quá trình dạy giải Toán có lời văn đồng chí thường gặp những khó khăn gì? – Học sinh thường mắc những lỗi gì trong bài khi học giải Toán có lời văn? – Đồng chí có cách nào để đổi mới phương pháp dạy học Toán? – Đồng chí có kiến nghị gì với cấp trên? 2. Khảo sát kĩ năng học giải Toán có lời văn của học sinh lớp 1. Tôi đã tìm hiểu và quyết định yêu cầu học sinh làm 1 số yêu cầu sau: Câu 1: Trả lời các câu hỏi sau: – Em có thích học giải Toán có lời văn không? – Sau khi thầy cô hướng dẫn giải toán có lời văn em thấy mình có thể làm được bài không? – Điểm bài Toán đó của em như thế nào? – Khi giải bài toán có lời văn em thường mắc những lỗi gì? Câu 2: Bài giải Học sinh giải bài toán sau: Lúc đầu tổ em có 5 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn? Sau khi tiến hành kiểm tra trước thực nghiệm, tôi thu được kết quả sau:

TS

Lớp

HỌC SINH Viết đúng câu Viết đúng phép Viết lời giải

35

1A3 3 = 8,57%

đúng Giải đúng cả

tính

đáp số

3 bước

21= 60,01%

5 =14, 28%

6 = 17, 14%

II. GIẢI PHÁP CỤ THỂ. Để chuẩn bị tốt cho phần học: Bài toán có lời văn.Học sinh đã phải trải qua 1 số giai đoạn cụ thể sau: 1. Giai đoạn 1: Quan sát tranh, nêu phép tính thích hợp.( Được bắt đầu từ tiết 27: luyện tập đến tiết 61: luyện tập) + Ở giai đoạn đầu tiên này học sinh được thường xuyên làm quen với dạng toán quan sát tranh nêu phép tính thích hợp. Tôi hiểu đó chính là yêu cầu: tập biểu thị tình huống trong tranh bằng 1 phép tính thích hợp. VD: Bài 5 tiết luyện tập trang 46.

1

+

2

=

3

– Bài đầu tiên rất quan trọng nên tôi cho học sinh quan sát kĩ tranh để học sinh biết được” Có mấy quả bóng? Thêm mấy quả bóng? Hỏi có tất cả máy quả bóng?”.Sau đó tôi giúp học sinh nêu thành bài toán đơn với 1 phép tính cộng: ” An có 1 quả bóng. Hà có 2 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?”. Cho nhiều học sinh nêu lại bài toán theo ý hiểu của mình, không bắt buộc phải giống y nguyên bài toán mẫu của cô. – Tôi nhấn mạnh vào từ: “có, thêm, có tất cả” để học sinh dần hiểu được: ” thêm” có nghĩa là: “cộng” và cụm từ: ” có tất cả” để chắc chắn rằng chúng ta sẽ thực hiện viết phép tính cộng vào ô trống đó. Tôi cũng không áp đặt học sinh cứ phải nêu phép tính theo ý giáo viên mà có thể nêu: 1 + 2 = 3 hoặc 2 + 1 = 3

1

+

2

=

3

– Tôi đã hướng dẫn học sinh làm theo đúng mục tiêu của dạng bài tập này là: Giúp học sinh hình thành kĩ năng biểu thị một tình huống của bài toán bằng một phép tính tương ứng với mỗi tranh vẽ. VD: Bài 5( b) trang 50.Viết phép tính thích hợp. Cho học sinh xem tranh, nêu bài toán: Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh có thể nêu: 1. Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh viết:

4+1=5

2. Có 1 con chim đang bay và 4 con chim đậu trên cành. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh viết phép tính: 1 + 4 = 5 3.Có 5 con chim, bay mất 1 con. hỏi còn lại mấy con? Học sinh viết phép tính: 5 – 1 = 4 3. Có tất cả 5 con chim, trong đó có 4 con đậu trên cành. Hỏi có mấy con đang bay? Học sinh viết phép tính: 5 – 4 =1 Có rất nhiều cách để nêu, giải bài, có nhiều kết quả đúng toán tôi thường xuyên khuyến khích học sinh làm như vậy. nhưng với bức tranh của bài 5b trang 50. Tôi sẽ hướng dẫn để học sinh có thể viết: 1+4=5 để phép tính phù hợp với tình huống của bài toán nêu ra. – Tương tự như vậy cho đến hết tiết 61: Luyện tập trang 85. – Như vậy qua giai đoạn 1 học sinh của tôi đã hình thành tốt kĩ năng khi làm dạng bài tập như trên. Đó là:

2. Giai đoạn 2: Tuần 16: (Từ tiết 62 trang 87 đến hết tiết 83 trang 113) Từ giai đoạn này, học sinh không quan sát tranh để nêu phép tính thích hợp nữa mà chuyển sang: ” Viết phép tính thích hợp” dựa vào tóm tắt bài toán. Bài 3( b) trang 87:

Có : 10 quả bóng

Cho: 3 quả bóng

Còn : . . . quả bóng Tương tự như ở giai đoạn 1.Tôi tiếp tục cho học sinh đọc nhiều lần tóm tắt bài toán rồi căn cứ vào thuật ngữ: : “Có, cho, còn” để tiếp tục hướng dẫn học sinh: ” cho” là bớt đi và từ “còn” là chúng ta phải thực hiện phép tính trừ vào ô trống. 10 – 3 = 7 Như vậy ở giai đoạn này học sinh đã quen dần với cách nêu bài toán, câu trả lời bằng miệng. Rèn luyện thành thạo kĩ năng này sẽ rất thuận lợi khi học sinh bươc vào giai đoạn học: ” giải toán có lời văn” 4. Giai đoạn 3: Từ (tiết 84: bài toán có lời văn) trang 115 đến cuối năm học sinh chính thức học, rèn luyện giải bài toán có lời văn. a.Nhận biết cấu tạo bài toán có lời văn. Tiết 84: Bài toán có lời văn. Học sinh được học với đề toán chưa hoàn thiện. Tiếp tục sử dụng kĩ năng quan sát tranh, học sinh đã rất thành thạo ở giai đoạn 2 vậy nên hoàn thiện nốt đề bài toán là điều không khó đối với học sinh lớp tôi. Tiếp tục tôi giảng để học sinh nắm chắc một bài toán có lời văn ở lớp 1 gồm 2 phần: + Phần cho biết, phần hỏi.( Phần cho biết gồm 2 ý: Có . . . cho thêm.Có . . .và.Có. . . bay đi, . . . .) Bài toán có lời văn còn thiếu số và câu hỏi: ( cái đã cho, cái cần tìm) Gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau. VD: Bài 1 ( trang 115).Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán. Bài toán 1: Có …bạn, có thêm… bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?

Bài toán 2: Có … con , có thêm … con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ ? * Bài toán còn thiếu câu hỏi ( cái cần tìm) Bài 3 Viết tiếp câu hỏi để có bài toán. Bài toán 3 : Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. Hỏi ………………………………………………….? * Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi ( cái đã cho và cái cần tìm) Bài toán 4: Có … con chim đậu trên cành, có thêm….con chim bay đến. Hỏi ………………………………………………….? – Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu là cái cần tìm. Bước 1: GV đặt câu hỏi – HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu trên bảng lớp. Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của bài toán. Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác định bài 1 và bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiều được đây là dạng toán có lời văn phải có đủ dữ kiện. b.Quy trình giải toán có lời văn. Gồm các bước: – Tìm hiểu bài toán.

Skkn Rèn Luyện Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của môn Toán trong trường tiểu học. Bậc tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn Toán cũng như những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát tiển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp của con người. Môn Toán ở trường tiểu học là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của trẻ. Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiêm cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận lô gíc, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Để góp phần tạo ra những con người thông minh, sáng tạo, giàu ý chí và nghị lực, vững tin vào bàn tay, khối óc của mình, người thầy giáo phải coi trọng việc rèn luyện kĩ năng tư duy độc lập cho học sinh qua các môn học nói chung, qua môn toán nói riêng và đặc biệt là qua học giải toán có lời văn. 2. Xuất phát từ ý nghĩ của việc dạy giải toán có lời văn. Giải toán là mạch kiến thức hết sức quan trọng, chính vì thế, nó được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác của môn toán ở bậc tiểu học. Giải toán ở bậc tiểu học giúp học sinh vừa thực hiện nhiệm vụ củng cố kiến thức toán học đã lĩnh hội, đồng thời vận dụng kiến thức ấy vào giải các bài toán gắn với tình huống thực tiễn. Qua giải toán tạo điều kiện giúp các em phát triển trí thông minh tư duy độc lập, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết), cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng cho các em, góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt sáng tạo. Đối với học sinh lớp Hai, các em mới làm quen với giải toán có lời văn (các em đã được học ở lớp Một nhưng rất ít) nên người thầy phải hết sức chú trọng để trang bị cho các em một số kiến thức và kĩ năng cơ bản trong giải toán để các em có thể học tốt hơn môn toán. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã nghiên cứu tài liệu, học hỏi, tham khảo bạn bè đồng nghiệp và qua thực tế giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc “Rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2” và đã viết nên đề tài này. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. – Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp dùng để giảng dạy toán có lời văn. – Tìm hiểu những kĩ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. – Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành các kiến thức đã học; rèn luyện kỹ năng tính toán là bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. – Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khơi gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. – Rèn luyện cho học sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như: tư duy, cẩn thận, nhanh nhẹn, cụ thể….. – Khảo sát và hướng dẫn cụ thể một số bài toán giải, một số dạng toán có lời văn ở lớp 2, để từ đó đúc rút kinh nghiệm cho bản thân, và đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. – Đối tượng: Học sinh lớp 2B, Trường Tiểu học……. – Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2016 đến tháng 2/2017 VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. a. Phương pháp quan sát: Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn Toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 2, việc sử dụng đồ dùng trực quan nhiều hơn. Ví dụ: Khi dạy giải toán ở lớp 2, giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau đó hướng dẫn các em lập tóm tắt đề bài rồi mới đến bước chọn phép tính. b. Phương pháp điều tra, khảo sát: Điều tra, khảo sát khả năng giải toán có lời văn của học sinh khối lớp 2 Trường Tiểu học……. c. Phương pháp phân tích, đàm thoại: Đây là phương pháp cần thiết và thích hợp với học sinh ở tiểu học, rèn luyện cho học cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh. Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần lựa chọn hệ thống câu hỏi chính xác và rõ ràng, nhờ thế mà học sinh có thể nắm được ngay nội dung kiến thức từ đầu và giúp các em dễ dàng trả lời các câu hỏi. d. Phương pháp thực hành và luyện tập: Sử dụng phương pháp này thực hành luyện tập kiến thức, kĩ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp. Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: Gợi mở, vấn đáp và giảng giải minh hoạ. PHẦN 2. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Dạy học toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn, đa dạng, phong phú, những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Mạch kiến thức giải toán có lời văn được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác trong môn Toán lớp 2. giải toán có lời văn giúp học sinh vừa thực hiện nhiệm vụ củng cố kiến thức toán học đã lĩnh hội đồng thời vận dụng kiến thức ấy vào giải các bài toán gắn liền với tình huống thực tiễn. Học sinh tự giải được các bài toán có lời văn là một yêu cầu cơ bản của dạy toán học. Vì vậy, việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh tiểu học có vai trò hết sức quan trọng trong việc dạy học toán. Nhờ giải toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Vì vậy giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác: Xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa các đã cho với cái cần tìm, trên cơ sở đó chọn được phép tính thích hợp và trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Dạy học giải toán giúp học sinh tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra các quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Như vậy đây là một loại toán khó đối với học sinh tiểu học bởi ở lứa tuổi này các em chưa tiếp xúc nhiều với cuộc sống, bản chất của các em còn rất hồn nhiên và ngây thơ, sự chú ý của các em còn hướng ra bên ngoài chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy, vào trí nhớ lô gíc, trí nhớ máy móc cũng dễ dàng đối với các hiện tượng hình ảnh cụ thể hơn là các câu chữ trừu tượng, khô khan. Để giúp học sinh giải toán có lời văn theo hướng tích cực giáo viên cần giúp học sinh tự mình tìm hiểu được các mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả mối quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải của bài toàn. Để đạt được mục tiêu trên, giáo viên phải thực hiện được các yêu cầu sau: Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ…(chuẩn bị cho học sinh giải toán). Tổ chức cho học sinh thực hiện giải toán. Tổ chức rèn kĩ năng giải toán. Rèn luyện năng lực khái quát hóa giải toán. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Qua thực tế dạy học từ Trường Tiểu học, bằng việc dự giờ, thăm lớp, trao đổi giờ dạy và rút ra kinh nghiệm giờ dạy của các đồng nghiệp cho thấy. 1. Về phía giáo viên Đa số giáo viên đã biết hướng dẫn cho học sinh nắm bắt được cách giải bài toán có lời văn theo các bước giải nhưng thống nhất theo một trình tự chặt chẽ, đôi lúc làm tắt, bỏ qua một số bước ( Ví dụ: không cho hoc sinh tóm tắt bài toán, không cho học sinh xác định dạng bài, kiểu bài…) Một bộ phận giáo viên chưa linh hoạt trong cách hướng dẫn học sinh giải bài toán, chưa biết cách hướng dẫn học sinh khai thác đề bài để định hướng cách làm bài 2. Về phía học sinh Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, đa số các em là thích học toán nhưng lại rất ngại những bài toán có lời văn vì đối với dạng bài này bắt buộc các em phải tư duy, trình bày nhiều hơn. Mặt khác, vì mới học lớp 2 nên vốn ngôn ngữ của các em còn hạn chế, đầu năm học có em còn đọc chưa thạo, có em đọc được nhưng còn chưa hiểu vì vậy khi giải các bài toán có lời văn, lời giải chưa gọn, có khi còn thiếu chính xác, chưa liên hệ được những điều đã biết, điều cần tìm trong bài để có phép tính đúng. Khảo sát chất lượng: Đầu năm, sau khi nhận lớp, tôi bắt tay ngay về tìm hiểu đối tượng học sinh, tôi nhận thấy lớp 2B các em có lực học khá đồng đều, nhưng đối với giải toán có lời văn các em vẫn còn hơi yếu: Kết quả khảo sát đầu năm: Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 21 SL TL SL TL SL TL 10 47,6% 8 38% 3 14,4% Trong đó đối với bài toán giải: Số học sinh sai về lời giải là 5 em = 23,8% Số học sinh sai về phép tính là 8 em = 38% Số học sinh sai về đơn vị là 3 em = 14,4% Nguyên nhân: Sau khi khảo sát, tìm hiểu thực tiễn tôi thấy có những nguyên nhân như sau: 1. Do học sinh không đọc kĩ đề bài nên không nắm vững được những điều đã biết, những điều cần tìm trong bài toán dẫn đến chưa định hướng được cách làm bài. 2. Học sinh chưa biết cách tóm tắt bài toán. 3. Học sinh không nắm vững câu hỏi của bài nên không xác định được dạng bài. 4. Có học sinh không biết dựa vào câu hỏi để tìm lời giải. 5. Có học sinh chưa nắm vững cách trình bày bài giải. 6. Học sinh không có thói quen kiểm tra lại bài sau khi làm bài xong. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 A. Các bước thực hiện giải bài toán có lời văn: Khi hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn, GV phải giúp học sinh tự mình tìm hiểu mối quan hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm, mô tả quan hệ đó bằng tóm tắt bài toán, bằng câu lời giải, bằng phép tính cụ thể. Xuất phát từ định hướng trên, khi dạy các bài toán có lời văn tôi tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán cụ thể như sau: 1. Đọc và tìm hiểu bài toán: Trong các bước giải toán theo tôi bước này là bước quan trọng nhất để giúp các em xác định được cách giải bài toán đó cụ thể như thế nào? Bước này tập trung cao độ tư duy của học sinh để lập được mối tương quan giữa các đại lượng. Giáo viên là người giúp đỡ học sinh hiểu rõ một số từ quan trọng như “thêm, hơn, kém, bớt, gấp, chia,…”; “còn lại, có tất cả,…” Ở đây giáo viên giúp học sinh biết suy luận: Muốn tìm cái chưa biết thì phải dựa vào thông tin đã biết. Để làm được điều đó cần thực hiện qua các bước: Bước 1: Đọc bài toán (đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc bằng mắt). Bước 2: Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để hiểu nội dung, nắm được mối quan hệ giữa những điều đã biết và những điều cần tìm trong bài toán. Xác định được kiểu bài, dạng bài. Thông thường đề bài của bài toán có lời văn bao gồm có 2 phần đó là: Điều đã biết; điều cần tìm. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nhận biết: Điều đã biết thường bắt đầu bằng từ “ có” Điều cần tìm thường bắt đầu bằng từ “ Hỏi” hay từ “ Tính” Ngoài ra trong đề toán còn nêu ra mối quan hệ giữa điều đã biết và điều cần tìm. Vì vậy muốn tìm hiểu được đề của bài toán yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề bài (3 lần trở lên). Tìm hiểu xem bài toán cho biết những gì, bài toán hỏi gì? Liên hệ với những điều đã học để xác định dạng bài. Ví dụ: Bài tập 4 (Trang 57 – SGK) Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp. Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp? Tìm hiểu, phân tích bài toán ta có thể có các cách như sau: Cách 1: GV hỏi HS: + Bài toán đã cho biết gì? (Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp.) + Bài toán hỏi gì? (Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp?) Cách 2: Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm đề bài, dùng bút chì gạch một gạch dưới điều đã cho biết và hai gạch dưới điều cần tìm. Bước 2: + Học sinh cả lớp cùng hoạt động sau đó nêu ý kiến của mình hoặc lên bảng thực hiện những điều mà giáo viên yêu cầu. + Giáo viên cho một vài học sinh nêu lại điều đã biết và điều cần tìm. GV nhấn mạnh các từ có, đã bán, còn lại để học sinh nhận dạng được bài toán). Qua 2 cách làm trên cho ta thấy: Cách 1: Phân tích rất cụ thể, phù hợp với các đối tượng học sinh lớp 2. Tuy vậy cách phân tích đó nếu lập lại nhiều lần sẽ dập khuôn, máy móc, nhàm chán. Học sinh không phát huy được tính tích cực, chủ động, có em còn ỷ lại cho bạn hoặc chỉ thụ động làm theo ý bạn hay cô giáo nêu ra. Cách 2: Giúp học sinh có kỹ năng biết phân tích bài toán tốt hơn, đọc kỹ đề bài hơn và chủ động, tích cực hơn. Phân tích bài toán theo cách 2 đối với HS lúc đầu có vẻ khó, các em làm hơi chậm nhưng điều quan trọng là rèn luyện cho học sinh có thói quen đọc kỹ đề bài trước khi làm bài. Mỗi cách đều có những mặt tích cực và hạn chế, giáo viên cần linh hoạt vận dụng để hướng dẫn học sinh sao cho đạt hiệu quả cao nhất. 2. Tìm cách giải bài toán: * Tóm tắt bài toán: Dựa vào những điều đã biết, những điều cần tìm để viết tóm tắt bài toán bằng ngôn ngữ toán học (Tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, sơ đồ ven). Ví dụ: * Tóm tắt bằng lời: Bài tập 4 (Trang 57 – SGK) Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp. Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp? Hướng dẫn HS đọc đề bài, nêu những điều đã biết (Có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp ), những điều cần tìm (cửa hàng còn lại mấy xe đạp), chọn lọc những từ ngữ quan trọng (Có, đã bán, còn lại) để tóm tắt bài toán: Tóm tắt: Có : 13 xe đạp Bán : 6 xe đạp Còn lại :.. xe đạp? * Tóm tắt bằng hồ sơ đoạn thẳng Bài 2: (Trang 24 – SGK) Nam có 10 viên bi, Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi? Hướng dẫn HS cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau: Yêu cầu học sinh đọc thầm đề bài, dùng bút chì gạch một gạch dưới điều đã cho biết và 2 gạch dưới điều cần tìm. Sau đó tôi hỏi HS: Nam có bao nhiêu viên bi? (Nam có 10 viên bi), vậy ta biểu thị số bi của Nam bằng 1 đoạn thẳng. 10 viên bi Số bi của Bảo như thế nào so với số bi của Nam? (Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi). Muốn biểu diễn số bi của Bảo ta phải vẽ đoạn thẳng như thế nào? (Đoạn thẳng dài hơn đoạn thẳng biểu diễn số bi của Nam). – Phần dài hơn đó tương ứng với bao nhiêu viên bi? (5 viên bi). – GV vẽ tiếp đoạn thẳng biểu diễn số bi của Bảo. – Vậy bài toán hỏi gì? (Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi?). 10 viên bi 5 viên bi Sau khi phân tích rõ ràng như trên tôi hướng dẫn học sinh vẽ tóm tắt: Nam Bảo ? viên bi * Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt: Cho HS dựa vào tóm tắt nêu lại vắn tắt nội dung của bài toán. * Lập kế hoạch giải bài toán: Xác định trình tự giải bài toán: thông thường xuất phát từ câu hỏi của bài toán đi đến các yếu tố đã cho với yêu cầu bài toán phải tìm và tìm được đúng phép tính số học thích hợp. 3. Tìm lời giải. Học sinh dựa vào câu hỏi của bài để tìm lời giải cho bài toán. (Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu câu trả lời giải chính là câu trả lời cho câu hỏi trong bài – Vì lớp 2 giải toán đều là các bài toán đơn). Vậy để giúp học sinh tìm ra câu trả lời nhanh và đúng nhất, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải như sau: Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán. Ví dụ: Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi? Bỏ bớt chữ “Hỏi”, cụm từ “bao nhiêu” thay bằng từ “số”, thêm từ “là” vào cuối câu được câu lời giải: “Bảo có số viên bi là”. Đây là cách đơn giản, học sinh dễ nắm bắt nhất. Cách 2: Cũng ví dụ trên, đưa từ “viên bi” ở cuối câu hỏi lên đầu câu hỏi thay cho chữ “Hỏi” và thêm chữ “số” ở đầu câu, cuối câu thêm chữ “là” để được câu trả lời: “Số viên bi Bảo có là:”. Cách 3: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Bảo có bao nhiêu viên bi? để học sinh trả lời miệng: “ Bảo có 15 viên bi” rồi chèn phép tính vào để có các bước giải (gồm cả lời giải và cả phép tính). Bảo có số viên bi là: 10 + 5 = 15 (viên bi) Cách 4: Sau khi học sinh nêu phép tính: 10 + 5 = 15 (viên bi), giáo viên chỉ vào 15 và hỏi: “15 viên bi” ở đây là số bi của ai? (là số bi của Bảo). Từ câu trả lời của các em ta giúp học sinh chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số bi của Bảo là”: 4. Xác định đơn vị bài giải: Cách xác định đơn vị của bài toán: Muốn xác định được đơn vị của bài toán phải giúp học sinh trả lời được câu hỏi xem bài toán yêu cầu tìm gì? Giáo viên gạch dưới đơn vị của bài. Giáo viên hướng dẫn tìm cụ thể một vài bài để học sinh định hướng và dần dần xác định được đơn vị của bài toán. Vì bài toán có lời văn của lớp 2 chỉ là những bài toán đơn nên tôi có một mẹo nhỏ giúp HS xác định đúng đơn vị bài toán đó là khi đọc câu hỏi sau từ: bao nhiêu hay từ mấy là từ gì thì đó chính là đơn vị của bài giải. 5. Thực hiện cách giải và trình bày bài giải. Đây là bước cụ thể, cụ thể hóa của quá trình tư duy trên, nó thể hiện rõ nét kỹ năng, kỹ xảo giải bài tập của học sinh, Học sinh dựa vào sơ đồ phân tích trên để viết bài giải, nó được chuyển dịch tư duy ngược lại khi phân tích. – Thực hiện các phép tính đã xác định (có thể viết phép tính sau khi viết câu lời giải và thực hiện phép tính). – Viết câu lời giải. – Viết phép tính tương ứng. – Viết đáp số. – Tôi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải vào vở ô li như sau: + Lùi vào 5 ô so với lề để viết Bài giải. + Viết câu lời giải cân đối với từ Bài giải (thường là lùi vào 2 ô so với lề). + Viết phép tính lùi vào 2 ô so với lời giải. + Viết đáp số lùi vào thẳng với từ bài giải. Ví dụ: Bài giải Số học sinh trong lớp học đó là: 14 + 16 = 30 (học sinh) Đáp số: 30 học sinh Cách trình bày bài giải đối với học sinh lớp 2 cũng rất quan trọng. Giáo viên cần rèn cho học sinh có con mắt thẩm mĩ trong cách trình bày bài, rèn cho các em có thói quen trình bày bài khoa học và đẹp để sau này khi lên các lớp trên các em không còn lúng túng khi trình bày bài giải. 6. Kiểm tra bài giải: Kiểm tra số liệu, kiểm tra tóm tắt, kiểm tra phép tính, kiểm tra câu lời giải, kiểm tra kết quả cuối cùng có đúng với yêu cầu. Tóm lại: Trong quá trình dạy dạng toán có lời văn, giáo viên cần lưu ý: – Luôn luôn củng cố các bước giải toán. Vì nếu trong quá trình giải toán, học sinh không nắm được các bước giải một bài toán thì học sinh sẽ không có cách giải hay, nhanh nhất và đúng nhất. – Giúp học sinh nắm vững, ghi nhớ được các bảng cộng, trừ, nhân, chia. để áp dụng vào phép tính trong bài toán có lời văn. Vì nếu không thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia. không biết cách tính nhẩm thì không tránh khỏi sai sót kết quả của bài toán. B. Các ví dụ: Trong chương trình Toán 2 có các dạng toán giải sau: 1. Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ. 2. Bài toán về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị. 3. Giải các bài toán đơn về phép nhân và phép chia. Tôi có hướng dẫn học sinh ở mỗi dạng bài như sau: 1. Dạng bài toán có phép tính cộng Học sinh cần đọc kỹ đề bài, tìm hiểu các từ ngữ trong bài để xác định hướng giải của bài toán. Dạng này giáo viên hướng dẫn HS dựa vào một số từ ngữ để xác định dạng bài như: Ở phần “cho biết” thường có các từ “và”, “thêm”, phần cần tìm thường có các cụm từ “Hỏi có tất cả”, “hỏi cả hai 2 buổi”, “hỏi cả hai bạn”. Ví dụ 1: Bài tập 4 (Trang 14). Một lớp học có 14 học sinh nữ và 16 học sinh nam. Hỏi lớp học đó có tất cả bao nhiêu học sinh? – Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo các bước: Giáo viên cho học sinh đọc thành tiếng, đọc thầm. Em hãy gạch 1 gạch dưới tất cả những điều

Bạn đang xem bài viết Skkn Tạo Hứng Thú Học Tập Cho Học Sinh Thông Qua Khai Thác Một Bài Toán Hình Học 7 trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!