Cập nhật thông tin chi tiết về Thơ Về Đại Thắng Mùa Xuân 1975 mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Lời BBT: Năm mươi sáu ngày đêm lịch sử (từ 4-3 đến 30-4-1975) trong thế trận “trúc chẻ ngói tan” khi thời cơ chiến lược xuất hiện, táo bạo, thần tốc, quân và dân ta dốc sức tiến công, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, lành lại nỗi đau chia cắt, đem niềm vui hòa bình đến với mọi nhà, với toàn dân tộc. Đồng Nai trước giải phóng 1975 là địa bàn chiến lược, cửa ngõ vào Sài Gòn, nơi địch điên cuồng lập phòng tuyến tử thủ, đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, đổ nhiều xương máu hy sinh.
Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Đồng Nai Cuối tuần giới thiệu một số bài thơ của những người lính trực tiếp tham gia chiến dịch lịch sử, có mặt trong những trận chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang ấy. Trang thơ do nhà thơ Đàm Chu Văn tuyển chọn.
Thương
Đã vượt qua cả ngàn cây số đạn bom
bạn nằm lại ở rừng cao su Bà Rịa
đành chịu lỗi với mẹ
ngày mai chiến dịch cuối cùng sẽ mở
chắc mẹ ở nhà dõi theo chờ
máu chảy theo hình chữ S
chảy đến mỗi ngõ nhà…
25-4-1975
Lực lượng giải phóng tiến vào Sài Gòn mang theo cờ và ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 30-4-1975. Ảnh: Jacques Pavlovsky
Khi ấy mặt trời chưa lên
Chỉ có pháo bắn thật gần
mới được cười thoải mái
bom nổ loạt thật dài
mới hát hết một câu
Pháo sáng vãi đúng đầu
mới nhìn rõ mặt nhau
mới nhìn rõ những cái đầu
mọc lên từ cát
giống một vườn cây ươm
Chỉ có dứt hẳn tiếng pháo, tiếng bom
mới nghe tiếng gào
của dòng sông chảy xiết
tiếng quẫy nước
phải rất tinh mới nghe thấy được
trong chớp lửa nhập nhòe
chúng tôi vượt sông
Chỉ có ánh sáng vừa lên
mới trông rõ dải sao trong khói bom
không đứng yên mang tâm hồn chiến sĩ
mới trông rõ dòng sông Đồng Nai lấp loáng
chảy ngang
và đội hình chúng tôi vượt qua
hàng dọc
thành một dấu cộng
mặt trời khi ấy chưa lên
Mặt trời sẽ lên thôi
chúng tôi đẩy mặt trời lên
để nhìn rõ Sài Gòn phía trước
để viên đạn bay đi khỏi lạc
bầy chim xòe quạt đón mặt trời
Sài Gòn ơi!
hồi hộp kia rồi
qua họng súng bồn chồn trên sóng nước
mặt trời khi ấy
vẫn chưa lên…
Vượt sông Đồng Nai.
30-4-1975
Vương Cường
Đêm vào chiến dịch
Ta lại mở những cung đường mới nữa
Đường dài không nhớ hết những đoàn quân
Bánh xe lăn hòa với những bước chân
Ngọt trong gió đêm hè chiến dịch
Ôi con đường dẫn ta tới đích
Là con đường có ánh sáng hàng tiêu
Đồng chí công binh bắt tay người ra trận
Thấy con đường ấm như bàn tay
Từ Xuy Nô đến ngã ba Cây Điệp
Những con đường nối bước xung phong
Đêm không ngủ dẫn xe vào trận đánh
Bóng nghiêng dài trên tháp pháo xe tăng
Ngâm mình trong nước lạnh
Nhổ rào kẽm gai, cột sắt
Áo loang màu đất, mùi bùn
Tất cả vững vàng trong thế trận tấn công!
Bến Cát, tháng 4-1975
Đức Quả
Những Chiến sĩ Điện Biên
Tư lệnh trưởng hướng Bắc gặp Chính ủy hướng Nam
Nỗi xúc động rung hai mái đầu tóc bạc
Những Chiến sĩ Điện Biên năm trước
Lại gặp nhau ở đích cuối cùng.
Dọc xa lộ Biên Hòa
Đỏ lòng xa lộ: màu cờ
Trắng bờ xa lộ: giặc giơ tay hàng
Chúng thoát chết, miệng hân hoan
Sài Gòn mở cửa đón đoàn quân vô.
Trước Dinh Độc Lập
Dép còn lấm đỏ đất rừng
Hân hoan nhịp bước giữa rừng cờ hoa
Hồn như bay giữa giấc mơ
Quanh tôi ba má, dì cô hỏi chào
Vui sao nước mắt dâng trào
Bốn phương đồng đội gặp nhau phen này.
30-4-1975
Nguyễn Miền Đông
Trận cuối cùng
Mai vào trận cuối cùng
Đêm nay ta không ngủ
Tin vui như hoa nở
Náo nức mãi trong lòng
Gần xa trong tiếng súng
Tiếng dân reo vang lừng
Một vùng đất mênh mông
Đã rợp cờ giải phóng
Ta như cơn gió lốc
Mới ngày nào Chơn Thành
Hôm qua về Long Khánh
Biên Hòa đây rồi anh!
Những binh đoàn lớp lớp
Tiến quân về Sài Gòn
Tăng, pháo ta trùng trùng
Mặt quân thù khiếp đảm
Đồn bốt thù hiện ra
Lù lù trong bóng tối
Những lá cờ ba que
Trong đêm đen hấp hối
Ta hành quân thần tốc
Sài Gòn ta vây chặt
Quả đấm thép sẵn sàng
Giáng xuống đầu quân giặc
Nào, tăng ơi xông lên!
Hãy gầm vang đường phố
Quyết tâm trong trận này
Diệt thù tận hang ổ!
Mai vào trận cuối cùng
Đêm nay ta không ngủ
Trời đã hừng phía đông
Sài Gòn ơi, súng nổ!
29-4-1975
Nguyễn Quốc Trung
Bộ đội Quân đoàn 4 tiến vào giải phóng Xuân Lộc tháng 4-1975
Sài Gòn vào trận (trích)
Cờ trắng địch kinh hoàng trong tiểu khu Hàm Tân
trận cuối cùng này lại ghi thêm một chiến công chói lọi
cùng với hôm qua quân ta tiến vào Xuân Lộc giáng đòn vỗ mặt kẻ thù
ở đấy phòng tuyến được ken bằng xe tăng, phi cơ, bộ binh và lính dù chẳng ngăn được lớp sóng tiến công bắt đầu từ Phước Long, Pleiku, Buôn Mê Thuột; lớp sóng của những người chân đi dép cao su mang khí thế ngựa Gióng năm xưa và nghĩa quân Nguyễn Huệ tràn qua dải cát miền Trung, tràn qua những cánh rừng già cao nguyên bốn mùa mầu lá xanh um hướng về thành phố dinh lũy cuối cùng của lũ tay sai ngoan cố nơi đau thương trùm lên từng xóm nhỏ những căn nhà, ô cửa mốc meo chồng lớp trước sau những mái hiên thấp tè và tường gạch xỉn màu day dứt uất căm chồng chất.
Sóng ơi! Hãy bổ vào thành phố với những con đường như nhà lao khép chặt
Lửa ơi! Hãy bùng lên từ lòng Sài Gòn ấp ủ bao năm giải phóng những người thợ áo xanh, giải phóng những người buôn thúng bán bưng, giải phóng những em thơ, những ca-ve có cuộc đời như ngõ cụt; cho Chương Dương lại vang lên khúc hát, tiếng hát hào hùng có tự ngàn xưa; cho Thị Nghè sóng sánh nước xanh mơ; Sài Gòn yêu thương lại sáng ngời giữa lòng dân tộc.
Khi cờ đỏ ta bay trên phố dài Xuân Lộc
là lúc ta bắt đầu…
Lê Quang Trang
Đại Thắng Mùa Xuân 1975
Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc thắng lợi chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975), đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc kể từ cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.
Nhân kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2020), Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lê, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Khoảnh khắc lịch sử xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975, đánh dấu thắng lợi trọn vẹn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài hơn hai thập niên (1954 – 1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: Trần Mai Hưởng/TTXVN
Sức chiến đấu kiên cường, bền bỉ toàn dân tộc
Năm 1954, thực dân Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, buộc phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) rút khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, ngay sau đó, thực hiện chính sách “lấp chỗ trống”, đế quốc Mỹ nhảy vào tiến hành chiến tranh xâm lược, âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Để thực hiện mưu đồ trên, Mỹ dựng lên chính quyền, quân đội tay sai, ra sức phá hoại Hiệp định Geneva, đàn áp phong trào cách mạng miền Nam.
Chỉ trong vòng 4 năm (1954 – 1958), cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ, đảng viên; gần 90 vạn đồng bào yêu nước bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn, giết hại… Trước âm mưu, hành động xâm lược của địch, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội đối lập nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn nằm dưới sự đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và tay sai.
Như vậy, khác với 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, kẻ thù của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lần này là đế quốc Mỹ, đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa với tiềm lực kinh tế, quân sự rất hùng mạnh. Để đương đầu, đánh thắng kẻ thù đó, đòi hỏi nhân dân Việt Nam phải có sức mạnh rất lớn – sức mạnh chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, hay nói một cách khác, đó là sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước, tập trung cao độ trước hết ở đường lối kháng chiến.
Từ năm 1965, để cứu nguy cho chế độ Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh, nhiều loại vũ khí, trang bị cùng phương tiện chiến tranh hiện đại vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam; đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 12 đã thêm một lần nữa khẳng định nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng thiêng của cả dân tộc, của nhân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc; từ đó đề ra quyết tâm: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.
Đường lối kháng chiến do Đảng đề ra đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước, thực sự trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nhau đoàn kết phát huy sức mạnh tổng hợp vì lý tưởng cách mạng cao đẹp mà lịch sử đặt ra. Sức mạnh đấu tranh nhờ đó được biểu hiện phong phú, nhân lên gấp bội, biến thành hành động thực tiễn qua nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi khắp cả nước, từ hậu phương đến tiền tuyến.
Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 2 vượt sông tiến về Sài Gòn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
Điển hình như các phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”… ở miền Bắc; các phong trào “Bám đất, giữ làng”, “Một tấc không đi, một li không dời”, “Giết giặc lập công”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”… ở miền Nam; hay quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”… trên tuyến chi viện chiến lược Bắc – Nam. Tất cả đều hướng đến mục tiêu độc lập, hòa bình và thống nhất non sông.
Một nhà sử học Mỹ đã nhận xét rằng: Lịch sử phải đánh giá họ (người Việt Nam – miền Nam cũng như miền Bắc) cao nhất về sức chiến đấu ngoan cường và dũng cảm của con người. Còn cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara thì thừa nhận: nước Mỹ thua trận vì đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thúc đẩy họ đấu tranh cho giá trị và mục tiêu cao cả.
Bằng sức mạnh đó, trải qua gần 20 năm liên tục chiến đấu anh dũng kiên cường, bền bỉ, quân dân Việt Nam lần lượt từng bước đánh bại các chiến lược chiến tranh của kẻ thù: chiến tranh đơn phương, “tố cộng, diệt cộng” (1954 – 1960), “chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965), “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 – 1973), buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là thắng lợi cơ bản, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến.
Quyết tâm giành toàn thắng
Với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, tuy rút quân viễn chinh về nước, song đế quốc Mỹ lại lập ra bộ chỉ huy quân sự trá hình, tiếp tục viện trợ cho chính quyền, quân đội Sài Gòn ra sức phá hoại Hiệp định hòa bình vừa mới ký kết, hòng kéo dài chiến tranh xâm lược.
Về phía cách mạng, chúng ta thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris, nhưng trước hành động phá hoại trắng trợn, có hệ thống của địch, buộc nhân dân ta phải tiếp tục đấu tranh để giữ vững thành quả cách mạng, từ đó tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 21 (7-1973) đã khẳng định: bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam vẫn là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công để giành toàn thắng.
Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Đáp ứng yêu cầu cấp cách mạng đặt ra, Đảng họp Hội nghị Bộ Chính trị (30-9 – 7-10-1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (18-12-1974 – 8-1-1975), chính thức hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng, toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.
Thực hiện quyết tâm mà Bộ Chính trị đề ra, cả dân tộc “ra quân” trong mùa Xuân 1975 lịch sử. Chưa bao giờ, khát vọng hòa bình, thống nhất non sông của quân dân ta diễn ra sục sôi cao trào như thời điểm này. Chỉ ba tháng đầu năm 1975, hậu phương miền Bắc đã dốc sức đưa vào chiến trường miền Nam gần 12 vạn cán bộ, chiến sĩ; chi viện 230 nghìn tấn vật chất các loại, bảo đảm 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải…
Sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam thời kỳ này không chỉ tạo nên sức mạnh áp đảo về thế và lực so với quân địch, phục vụ tốt yêu cầu Tổng tiến công và nổi dậy, mà còn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng trên tất cả các mặt: kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế… chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng giải phóng khi chiến tranh kết thúc.
Được sự chi viện to lớn của miền Bắc, trên khắp chiến trường miền Nam, quân dân ta ra sức chuẩn bị các mặt cho trận quyết chiến quyết định cuối cùng. Chưa bao giờ, các phong trào đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, ngoại giao diễn ra sôi nổi như thời gian này, đẩy chính quyền, quân đội Sài Gòn lún sâu hơn vào tình thế khó khăn, hoàn toàn bị cô lập. Sức mạnh chiến đấu từ hơn 20 năm được dồn lại cho thời khắc lịch sử này.
Sau một thời gian chuẩn bị mọi mặt tạo thế, tạo lực, ngày 4-3-1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta bắt đầu, diễn ra với ba đòn tiến công chiến lược lớn: Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4-3 đến 3-4-1975), tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng (từ 21-3 đến 29-3-1975) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26-4 đến 30-4-1975).
Bốn chiến sĩ Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) – những người đầu tiên vào Dinh Độc lập và cắm cờ trên nóc phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn trưa 30-4-1975. Ảnh: Đinh Quang Thành/TTXVN
Trưa 30-4-1975, quân ta tiến vào Dinh Độc lập, bắt sống toàn bộ nội các chính quyền trung ương địch. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cả chặng đường 30 năm đấu tranh trường kỳ gian khổ (1945 – 1975). Đây chính là một trong những chiến công tiêu biểu nhất, huy hoàng nhất trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam.
Nhân dịp cả nước chào mừng kỷ niệm 45 năm Đại thắng mùa Xuân 1975, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ, toàn diện hơn về ý nghĩa tầm vóc sự kiện lịch sử trọng đại này. Từ đó, mỗi chúng ta càng nêu cao niềm tự hào dân tộc, biết trân trọng gìn giữ hòa bình, gìn giữ chủ quyền, từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc; ra sức thi đua lao động, học tập, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo Trần Hiền Hạnh (TTXVN)
Đại Thắng Mùa Xuân 1975: Thời Cơ Ngàn Năm Có Một…
Sau Hiệp định Paris năm 1973, dẫn tới việc quân đội Mỹ rút hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam, tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa bị suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là sau khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate vào tháng 8 năm 1974.
Sự suy sụp này còn xuất phát từ những nguyên nhân như: Mỹ giảm dần viện trợ quân sự, tinh thần của binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hòa rất rệu rã, các mục tiêu tác chiến không thể hoàn thành như đã định, dẫn đến những thất bại liên tiếp trên chiến trường.
Mỹ giảm viện trợ, quân lực Việt Nam Cộng hòa suy yếu nghiêm trọng
Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa đã dần bị cắt giảm. Theo số liệu thống kê, năm tài khóa 1973 là 2,1 tỷ USD, sang năm 1974, lượng viện trợ quân sự chỉ còn 1,4 tỷ USD và dự kiến viện trợ năm 1975 chỉ là 700 triệu USD.
Theo lời kể của ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng trưởng Kế hoạch của chính phủ Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ, Giáo sư Warren Nutter là Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng, đặc trách phần tài chính của chương trình “Việt Nam hóa” đã kể lại buổi điểm tâm với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu vào sáng ngày 23 tháng 8 năm 1974 tại Dinh Độc Lập.
Ông Thiệu bày tỏ sự lo ngại về viện trợ: “Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 dollars và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo”.
Ông Nutter cũng rất bối rối và giải thích rằng, Quốc hội Hoa Kỳ đôi khi hành động vô trách nhiệm và Trung tâm Tư liệu Đông Dương (Indochina Resource Center) đang hết sức tìm cách tiêu diệt Việt Nam Cộng hòa.
( Trung tâm tư liệu Đông Dương là một tổ chức nghiên cứu giáo dục tinh thần phản chiến có trụ sở tại Washington; do ông David Marr – cựu sĩ quan tình báo Thủy quân lục chiến Mỹ ở Việt Nam năm 1962 – 1963, khởi xướng thành lập vào năm 1972. Đến năm 1982, Indochina Resource Center sáp nhập vào Asia Research Center – Trung tâm nghiên cứu châu Á).
Nền kinh tế và chi tiêu của Việt Nam Cộng hòa duy trì được chủ yếu nhờ viện trợ Mỹ. Nền công nghiệp miền Nam nhỏ bé, nông nghiệp bị chiến tranh tàn phá; lạm phát phi mã xảy ra cùng với tệ tham nhũng, lợi dụng chức quyền càng làm cho nền kinh tế thêm tồi tệ.
Ông Bùi Diễm, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, đã từng nhận định tình hình kinh tế và quân sự của miền Nam Việt Nam đầu thập niên 70 đã trở nên rất xấu, khiến người dân không hài lòng với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tiền lương quân nhân không đủ sống do đó tình hình chính trị cũng xấu theo.
4/1975, Việt Nam đã giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước
Trong tập hồi ký “Mùa Xuân Đại Thắng”, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã viết, một trong những động cơ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công ở miền Nam là do Mỹ đã giảm viện trợ, khiến cho lực lượng quân lực Việt Nam Cộng hòa vốn được tổ chức rập khuôn theo lối đánh tốn kém của Mỹ đã không thể có đủ tài chính để duy trì số lượng lớn vũ khí.
Theo các tài liệu lưu trữ, sau khi Mỹ giảm viện trợ quân sự, hỏa lực không quân của Việt Nam Cộng hòa đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn; khả năng cơ động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ và nhiên liệu.
Trong khi quân đội Sài Gòn cần 3 tỉ dollars mỗi năm để duy trì bộ máy chiến tranh thì Hà Nội chỉ cần 10% con số đó để xây dựng một lực lượng quân sự đủ lớn để vừa giữ vững miền Bắc, vừa tăng cường quân đội chiến đấu ở miền Nam.
Sự rệu rã về yếu tố tinh thần
Mặc dù sức mạnh suy giảm nhưng quân số và vũ khí của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn có những điểm mạnh khi có đến 1.351.000 quân, 383 xe tăng (162 M48A3, 221 M41) và 1.691 thiết giáp chở quân M-113.
Không quân của họ cũng vượt trội với 550 máy bay chiến đấu A-1H, A-37 và F-5; 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1.000 trực thăng UH-1 và CH-47; khoảng 200 máy bay O1, O2 và U17; khoảng 150 máy bay vận tải C7, C-47, C-119 và C-130), 4 phi đội yểm trợ hỏa lực mặt đất, trang bị máy bay AC-119, AC-130 Spectre Gunship; các phi đội máy bay trinh sát, tình báo kỹ thuật, phi đội quan sát RC-119L.
Trong khi đó, Quân Giải phóng không thể triển khai lực lượng không quân ở miền Nam và lực lượng tăng thiết giáp cũng tương đối hạn chế. Ngay cả lực lượng bộ binh của quân Giải phóng cũng không thể đạt tới con số 1 triệu quân, kể cả ở thời điểm cao nhất.
Vậy tại sao mặc dù thực lực vẫn mạnh hơn nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn ở thế yếu hơn so với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam? Đó là do yếu tố con người. Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa chủ yếu là do yếu tố tâm lý, khi tinh thần của binh lính xuống rất thấp, số lượng đào ngũ tăng mạnh.
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết, sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và bắt đầu cắt giảm viện trợ quân sự thì tinh thần và sức chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hòa giảm sút rõ rệt.
Nạn đào ngũ là một vấn đề nghiêm trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Riêng từ tháng 4 tới tháng 12/1974 đã có 176.000 lính đào ngũ, rã ngũ, dù đã tăng cường thêm lính quân dịch thì tổng quân số vẫn giảm 20.000 người so với năm 1973.
Ngay cả trong những đơn vị tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tỷ lệ đào ngũ cũng tăng lên mức rất cao; ví dụ như: Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55% mỗi năm), tiếp theo là các đơn vị Dù (30%) và Thủy quân Lục chiến (15%).
Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã duy trì một lợi thế tâm lý mạnh mẽ, với những người lính tràn đầy tinh thần sẵn sàng hy sinh để cống hiến cho lý tưởng của mình là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước Việt Nam. Đó chính là ưu thế quyết định của họ.
Bên cạnh đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kiên trì công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước suốt 30 năm và không có lý do gì để từ bỏ nó khi mà quân đội của mình ngày càng hùng mạnh và có được lợi thế. Mọi người lính và chỉ huy quân Giải phóng đều cho rằng ngày chiến thắng đã cận kề, chỉ còn cách họ một trận đánh cuối cùng.
Sự tương phản giữa thế và lực giữa hai bên
Theo hồi ký của Đại tướng Văn Tiến Dũng thì cục diện chiến trường trước khi diễn ra Chiến dịch Mùa xuân năm 1975, đã chuyển biến theo hướng ngày càng bất lợi cho quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Tại Khu 9, các cuộc hành quân lấn chiếm bị thất bại, hơn 2.000 đồn bốt bị phá, 400 ấp chiến lược với gần 800.000 dân bị quân Giải phóng xóa bỏ; ở Khu 8 có hơn 200 ấp chiến lược với hơn 130.000 dân bị xóa bỏ; còn tại Khu 5, quân Giải phóng đã chuyển lên thế tiến công ngày càng mạnh, mở rộng bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh Long, Giá Vụt), xoá hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân.
Cuối năm 1974, quân Giải phóng chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối hợp với lực lượng địa phương mở chiến dịch Đường 14 – Phước Long giành thắng lợi lớn.
Trong hơn 20 ngày, quân Giải phóng đã diệt và bắt trên 5.400 quân địch, thu 3.000 súng các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long.
Thất bại này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân Sài Gòn, lực lượng chủ lực của Việt Nam Cộng hòa đã không còn đủ sức hành quân giải tỏa quy mô lớn để lấy lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng trên các địa bàn giáp ranh, dù Phước Long chỉ cách Sài Gòn vẻn vẹn 50km.
Quan trọng hơn, chiến thắng Đường 14 – Phước Long đã cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam xác định rõ quan điểm về cuộc chiến tranh Việt Nam và khả năng tái can thiệp quân sự của Mỹ.
Bị ràng buộc bởi đạo luật “War power act” do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1973 cấm tổng thống Hoa Kỳ sử dụng quân đội nếu không được sự chấp thuận của Quốc hội trước 6 tháng, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chỉ có thể đưa ra những hành động hạn chế.
Bộ Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương điều động một lực lượng đặc nhiệm hải quân gồm tàu sân bay Enterprise, tuần dương hạm Long Beach, hai tàu khu trục và một số tàu hậu cần rời cảng Subic của Philippines tiến vào Biển Đông.
Sư đoàn thủy quân lục chiến số 3 của Hải quân Hoa Kỳ đóng tại Okinawa cũng được đưa vào tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu.
Tuy nhiên, tất cả chỉ có vậy.
Ký giả Hoa Kỳ Alan Dawson nhận xét, khi Hoa Kỳ không thể tung quân trở lại miền Nam Việt Nam và chỉ hỗ trợ chính quyền Việt Nam Cộng hòa bằng lời nói chứ không phải bằng hành động quân sự thì niềm vui tràn ngập ở Hà Nội. “Nó chính lại là một trong những chiếc đinh cuối cùng đóng lên chiếc quan tài của quân đội Sài Gòn” – ông Alan Dawson nói.
Ngay sau thất bại Phước Long, cố vấn Mỹ John Pilger cũng đã tiên liệu trước về sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn sẽ diễn ra trong nay mai. Ông viết: “Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là ‘thủ đô tiêu dùng’ nhưng chẳng hề sản xuất được một mặt hàng nào ngoài chiến tranh”.
Hơn thế nữa, vị cố vấn Mỹ còn chua chát thừa nhận rằng, trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày. Vậy nên, sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn là một “thất bại được báo trước!”.
Thiên Nam
Đại Thắng 30/4/1975 Qua Bài Thơ “Toàn Thắng Về Ta” Của Tố Hữu
Kỷ Niệm 43 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam Thống Nhất Đất Nước (30/4/1975 – 30/4/2018)
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Bởi thế, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui chiến thắng giặc ngoại xâm, đem lại độc lập, thống nhất, hòa bình cho đất nước. Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh đại thắng 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc là niềm vui sướng, xúc động vô ngần của nhân dân ta. Bài thơ “Toàn thắng về ta!” của nhà thơ Tố Hữu (1920 – 2002) đăng báo Nhân Dân ngày 1/5/1975 nói lên niềm vui lớn lao của quân và dân ta về chiến thắng vĩ đại ấy (Toàn văn bài thơ, xem tập “Tố Hữu – Tác phẩm (thơ)”, NXB Văn học, Hà Nội – 1979, tr. 595 – 598).
Mở đầu bài thơ là niềm vui tột đỉnh của quân và dân ta khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Có được niềm vui ấy, phải trải qua 30 năm đầy gian khổ, hy sinh, anh dũng chiến đấu với hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Niềm vui xen lẫn nỗi xúc động, nghẹn ngào:
Người làm nên chiến thắng vang dội núi sông, chấn động địa cầu không phải là những siêu nhân, thần thánh, mà chính là Anh Giải phóng quân bình dị, kiên cường:
Những chiến thắng dồn dập của quân dân ta được Tố Hữu thể hiện bằng những câu thơ hào hùng, với nhịp điệu ào ào như thác lũ, cuồn cuộn như bão giông, liên tiếp đổ xuống đầu quân giặc: Chặt Buôn Mê Thuột, rụng cả Tây Nguyên
Quét Huế – Thừa Thiên, đổ nhào Đà Nẵng(“Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi) Và Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú YênVà Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Nha Trang, lũ ngụy cuống cuồng, rũ rượi một màu tang cờ trắng.
Hình ảnh và âm hưởng khổ thơ gợi nhớ khí thế mãnh liệt, rầm rộ của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo khi truy quét giặc Minh, ở nửa đầu thế kỷ XV:
Giây phút đầu tiên miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tố Hữu và toàn quân, toàn dân ta nhớ ngay đến Bác Hồ – vị lãnh tụ thiên tài! Bác đã chỉ đường cho chúng ta đi đến thắng lợi huy hoàng. Đẹp biết bao hình ảnh thành phố mang tên Bác trong ngày vui đại thắng:
Bác Hồ từng nói: “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Trong bài thơ “Mừng xuân 1969”, Bác đã khích lệ:
Bác Hồ thật là tiên tri.
Chiến thắng 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước – là sự thực hiện tuyệt vời ý nguyện của Bác Hồ vĩ đại, cũng là ý nguyện của nhân dân ta, đồng thời thể hiện đường lối chiến tranh nhân dân sáng suốt, đúng đắn và nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta! Chiến thắng 30/4/1975 được dư luận quốc tế đánh giá rất cao và xứng đáng là một trong những chiến thắng lẫy lừng nhất của các cuộc chiến tranh vệ quốc của các dân tộc trên toàn thế giới.
Thắng lợi của Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh – 30/4/1975 khẳng định sức mạnh Phù Đổng của quân và dân ta qua cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Từ đây, đất nước thống nhất sẽ không ngừng lớn mạnh, sáng tươi và ngày càng nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, thúc đẩy tiến trình hội nhập với thế giới văn minh. Tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin tưởng sâu sắc đó, được Tố Hữu thưa với Bác Hồ bằng những câu thơ hào sảng, thắm thiết nghĩa tình:
Bốn mươi ba năm đã trôi qua, Đại thắng 30/4/1975 vẫn là và mãi mãi là khúc khải hoàn ca tuyệt mỹ, là niềm phấn chấn và tự hào to lớn của quân dân ta, khích lệ dân tộc ta vững bước tiến lên phía trước.
Đào Ngọc ĐệTuần Báo Văn Nghệ chúng tôi số 495
Bạn đang xem bài viết Thơ Về Đại Thắng Mùa Xuân 1975 trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!