Top 5 # Bài Hát Hay Của Giải Grammy Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Caffebenevietnam.com

Giải Grammy Cho Bài Hát Rock Hay Nhất

Giải Grammy cho Bài hát rock hay nhất là một giải thưởng âm nhạc nằm trong trong hạng mục giải thưởng của giải Grammy, một giải thưởng ra đời vào năm 1958 ban đầu có tên gọi là giải Gramophone, trao cho các bài hát xuất sắc của năm thuộc thể loại Rock.

145 quan hệ: , Aerosmith, Ain’t It Fun (bài hát của Paramore), Alabama Shakes, Alanis Morissette, All Apologies, American Idiot (bài hát), Amy Lee, Anh, Avenged Sevenfold, Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll, Đảo Ireland, Barcelona, Best of You, Billie Joe Armstrong, Bitch (bài hát của Meredith Brooks), Bitter Sweet Symphony, Black Hole Sun, Black Sabbath, Bob Dylan, Bono, Bring Me to Life, Bruce Springsteen, Bryan Adams, Calling All Angels, Canada, Chasing Cars, Chris Cornell, Chris Martin, City of Blinding Lights, CNN, Coldplay, Creed, Daughtry, Dave Grohl, David Bowie, Death Cab for Cutie, Drops of Jupiter (Tell Me), Enter Sandman, Evanescence, Every Teardrop Is a Waterfall, Fiona Apple, Flea, Florence and the Machine, Florence Welch, Foo Fighters, Garbage, Giải Grammy, Giải Grammy cho Album rock xuất sắc nhất, Giải Grammy cho Trình diễn rock xuất sắc nhất, Giải Grammy lần thứ 48Giải Grammy lần thứ 49, Giải Grammy lần thứ 50, Giải Grammy lần thứ 51, Giải Grammy lần thứ 52, Giải Grammy lần thứ 53, Giải Grammy lần thứ 54, Giải Grammy lần thứ 55, Giải Grammy lần thứ 56, Giải Grammy lần thứ 57, Giải Grammy lần thứ 58, Giải Grammy lần thứ 59, Giải Grammy lần thứ 60, Green Day, Guy Berryman, Hayley Williams, Heathens (bài hát), Hoa Kỳ, Hold Back the River (bài hát của James Bay), I’d Do Anything for Love (But I Won’t Do That), Jack White, James Bay, Jonny Buckland, Keith Richards, Kings of Leon, Krist Novoselic, Kryptonite (bài hát), Kurt Cobain, Layla, Lonely Boy (bài hát của The Black Keys), Los Angeles Times, Madness (bài hát của Muse), Matchbox Twenty, Matt Bellamy, Metallica, Mick Jagger, MTV, Mumford & Sons, Muse (ban nhạc), Neil Young, Nickelback, Nirvana (ban nhạc), NME, Noel Gallagher, Oasis (ban nhạc), Ozzy Osbourne, Panic Station, Paramore, Paul McCartney, PDF, Pearl Jam, Peter Gabriel, Radiohead, Red Hot Chili Peppers, Resistance (bài hát), Rock, Seven Nation Army, Sex on Fire, Smells Like Teen Spirit, Snow Patrol, Somebody Told Me, Soundgarden, Speed of Sound, Steven Tyler, Sting (nhạc sĩ), The Black Keys, The Edge, The Killers, The New York Times, The Pretender (bài hát của Foo Fighters), The Rolling Stones, The Verve, The White Stripes, Thom Yorke, Tighten Up (bài hát của The Black Keys), Tom Petty, Train, Twenty One Pilots, Tyler Joseph, U2, Uninvited (bài hát), Unplugged (album của Eric Clapton), USA Today, Use Somebody, Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia, Violet Hill, Walk (bài hát của Foo Fighters), Walk On (bài hát của U2), Weezer, Will Champion, With Arms Wide Open, Wonderwall (bài hát), Yellow (bài hát), You Oughta Know, 21 Guns (bài hát), 3 Doors Down. Mở rộng chỉ mục (95 hơn) “

Aerosmith là một ban nhạc rock từ Mỹ, được nhận định là “Ban nhạc Rock ‘n Roll xuất sắc nhất của Mỹ”.

“Ain’t It Fun” là một bài hát của ban nhạc Rock Mỹ Paramore, được phát hành là đĩa đơn thứ tư cũng từ album phòng thu thứ tư của họ Paramore (album) (2013).

Alabama Shakes là một ban nhạc blues rock Mỹ từng thắng giải Grammy được thành lập ở Athens, Alabama năm 2009.

Alanis Nadine Morissette (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1974) là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, nhạc công guitar, nhà sản xuất thu âm và diễn viên người Mỹ gốc Canada.

“All Apologies” là một bài hát của ban nhạc người Mỹ Nirvana.

“American Idiot” là một ca khúc của ban nhạc punk rock Mỹ Green Day do giọng ca chính kiêm nghệ sĩ ghita Billie Joe Armstrong sáng tác, phát hành làm đĩa đơn đầu tiên của album thứ bảy American Idiot (2004).

Amy Lynn Hartzler (nhũ danh Lee, sinh ngày 13 tháng 12 năm 1981 tại Riverside, California), thường được biết tới với tên Amy Lee.

Anh (England) là một quốc gia thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.

Avenged Sevenfold (A7X) là một ban nhạc rock được thành lập tại California, Hoa Kỳ vào năm 1999.

Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll (tiếng Anh: Rock and Roll Hall of Fame) là một bảo tàng nằm ở bờ hồ Erie tại khu thương mại Cleveland, Ohio, Hoa Kỳ.

Ireland (phát âm tiếng Việt: Ai-len; phát âm tiếng Anh) là một đảo tại Bắc Đại Tây Dương.

Barcelona (tiếng Catalunya; tiếng Tây Ban Nha); tiếng Hy Lạp: (Ptolemy, ii. 6. § 8); tiếng Latin: Barcino, Barcelo (Avienus Or. Mar.), và Barceno (Itin. Ant.) – là thành phố lớn thứ 2 Tây Ban Nha, thủ phủ của Catalonia và tỉnh có cùng tên.

“Best of You” (tạm dịch: Nét đẹp nhất của bạn) là bài hát của ban nhạc Alternative rock Mỹ Foo Fighters và là đĩa đơn đầu tiên được phát hành từ album phòng thu thứ năm của họ, In Your Honor (2005).

Billie Joe Armstrong (sinh 17 tháng 2 năm 1972) là một ca sĩ kiêm người viết nhạc, nhạc sĩ, tay guitar và chơi đa nhạc cụ.

“Bitch” (hay được biết đến với tựa đề được kiểm duyệt “Nothing In Between”) là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Meredith Brooks nằm trong album phòng thu đầu tay của cô, Blurring the Edges (1997).

“Bitter Sweet Symphony” là một bài hát của ban nhạc alternative rock Anh quốc The Verve nằm trong album phòng thu thứ ba của họ, Urban Hymns (1997).

“Black Hole Sun” là một bài hát của ban nhạc rock Mỹ Soundgarden.

Black Sabbath là một ban nhạc heavy metal đến từ Birmingham, Anh.

Robert Allen Zimmerman (sinh ngày 24 tháng 5 năm 1941, tiếng Hebrew רוברט אלן צימרמאן‎, tên Hebrew שבתאי זיסל בן אברהם.

Paul David Hewson (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1960), được biết tới nhiều dưới nghệ danh Bono, là nhạc sĩ, ca sĩ, doanh nhân và nhà hoạt động xã hội người Ireland.

“Bring Me to Life” (tạm dịch: Hãy đưa tôi trở lại đời sống) là một ca khúc của ban nhạc rock Mỹ Evanescence.

Bruce Frederick Joseph Springsteen (sinh ngày 23 tháng 9 năm 1949), biệt danh “The Boss”, là một ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ.

Bryan Adams OC, OBC, (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1959) là một ca sĩ nhạc rock, nghệ sĩ guitar, nhạc sĩ, nhiếp ảnh gia người Canada.

“Calling All Angels” (Tiếng Việt: “Tiếng gọi các thiên thần”) là tên một bài hát của ban nhạc Rock Mỹ Train năm 2003.

Canada (phiên âm tiếng Việt: Ca-na-đa; phát âm tiếng Anh) hay Gia Nã Đại, là quốc gia có diện tích lớn thứ hai trên thế giới, và nằm ở cực bắc của Bắc Mỹ.

“Chasing Cars” là bài hát của nhóm nhạc alternative rock của Bắc Ireland Snow Patrol.

Christopher John Boyle (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1964, mất ngày 18 tháng 5 năm 2017) là ca sĩ, nhạc sĩ đa nhạc cụ người Mỹ.

Christopher Anthony John “Chris” Martin (sinh ngày 2 tháng 3 năm 1977) là một ca sĩ kiêm người viết nhạc, nhà sản xuất thu âm, người chơi nhiều nhạc cụ và đồng sáng lập ban nhạc alternative rock Anh quốc Coldplay.

“City of Blinding Lights” là một bài hát của ban nhạc rock U2.

Cable News Network (tiếng Anh, viết tắt CNN; dịch là “Mạng Tin tức Truyền hình cáp”) là một mạng truyền hình cáp tại Hoa Kỳ, được Turner Broadcasting System, một nhánh của Time Warner sở hữu.

Coldplay là một ban nhạc rock người Anh thành lập năm 1996 bởi giọng ca chính Chris Martin và tay guitar chính Jonny Buckland tại Đại học College London (UCL).

Creed là một ban nhạc rock Mỹ thành lập năm 1993 ở Tallahassee, Florida.

Daughtry là một ban nhạc rock nước Mỹ đến từ Bắc Carolina, được thành lập và đứng đầu bởi Chris Daughtry, thí sinh lọt vào vòng chung kết American Idol mùa thứ 5 (2006).

David Eric “Dave” Grohl, sinh ngày 14 tháng 1 năm 1969, là một rocker nổi tiếng người Mỹ.

David Bowie (tên thật David Robert Jones; 8 tháng 1 năm 1947 – 10 tháng 1 năm 2016) là ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, nhà sản xuất âm nhạc người Anh.

Death Cab for Cutie(còn được viết tắt là DCFC) là một ban nhạc Rock chơi theo thể loại Indie Rock được thành lập tại Bellingham, Washington vào năm 1997.

“Drops of Jupiter (Tell Me)” (hay đơn giản là Drops of Jupiter từ album cùng tên) là một ca khúc từng đoạt Giải Grammy do ban nhạc rock Mỹ Train sáng tác.

“Enter Sandman” là một ca khúc của ban nhạc heavy metal Mỹ Metallica, được phát hành làm đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu eponymous thứ năm của nhóm Metallica năm 1991.

Evanescence là nhóm nhạc rock của Mỹ chơi thể loại Gothic Rock từng giành 2 giải Grammy, thành lập ở Little Rock, Akansas từ năm 1995 bởi ca sĩ/nhạc công piano/nhạc sĩ Amy Lee (tên đầy đủ là Amy Lynn Lee Hartzler) và tay guitar Ben Moody.

“Every Teardrop Is a Waterfall” là một ca khúc của ban nhạc alternative rock người Anh Coldplay.

Fiona Apple (sinh 13 tháng 9 năm 1977) là một nữ ca sĩ người Mỹ, cô bắt đầu xuất hiện trước công chúng vào năm vào những năm thập niên 90 và giành được một hợp đồng ghi âm vào năm 1995.Cô cũng đã từng giành 1 giải Grammy vào năm 1998 dành cho Trình diễn giọng nữ rock xuất sắc nhất.

Michael Peter Balzary (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1962), thường được biết tới với nghệ danh Flea, là nhạc sĩ và diễn viên người Mỹ gốc Úc.

Florence and The Machine (cách điệu thành Florence + The Machine) là một ban nhạc indie rock đến từ Liên hiệp Anh, gồm sự kết hợp từ các nghệ sĩ: Florence Welch, Isabella “Machine” Summers và một số nghệ sĩ khác đảm nhận âm thanh nền.

Florence Leontine Mary Welch (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1986) là một nhà soạn nhạc, ca sĩ và nhạc sĩ người Anh, nổi tiếng với vai trò giọng ca của ban nhạc indie rock Florence and the Machine.

Foo Fighters là một ban nhạc rock người Mỹ, thành lập ở Seattle vào năm 1994.

Garbage là một ban nhạc người Mỹ-Scotland chơi theo phong cách alternative rock được thành lập tại thủ phủ Madison thuộc tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ vào năm 1993.

Giải Grammy (tên sơ khai Gramophone Awards hay đơn giản Grammy) là một giải thưởng được tổ chức bởi Viện thu âm nghệ thuật và khoa học quốc gia của Hoa Kỳ cho những thành tựu xuất sắc trong ngành công nghiệp thu âm.

Giải Grammy cho Album rock xuất sắc nhất là một hạng mục trong lễ trao Giải Grammy, được thành lập vào năm 1958 và có tên gọi ban đầu là Giải Gramophone, được trao cho những nghệ sĩ có album thể loại nhạc rock hay nhất.

Giải Grammy cho Trình diễn rock xuất sắc nhất là một giải thưởng quan trọng trong hạng mục giải Grammy.

Lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 48 diễn ra tại Trung tâm Staples tại Los Angeles, California.

Lễ trao giải Grammy lần thứ 49 là một giải thưởng âm nhạc danh giá nhằm tôn vinh các cá nhân thu âm xuất sắc bắt đầu từ 15 tháng 9 năm 2005 và kết thúc vào 14 tháng 9 năm 2006 tại Hoa Kỳ.

Lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 50 được tổ chức tại Trung tâm Staples, Los Angeles vào 10 tháng 2 năm 2008.

Giải Grammy lần thứ 51 đã diễn ra tại Trung tâm Staples ở Los Angeles vào 8 tháng 2 năm 2009.

Giải Grammy lần thứ 52 diễn ra ngày 31 tháng 1 năm 2010 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California, Mỹ.

Giải Grammy lần thứ 53 được tổ chức vào ngày 13 tháng 2 năm 2011 tại Staples Center ở Los Angeles.

Giải Grammy lần thứ 54 được tổ chức vào ngày 12 tháng 2 năm 2012 tại Staples Center, thành phố Los Angeles, California tại Mĩ.

Giải Grammy lần thứ 55 được tổ chức vào ngày 10 / 2 / 2013 tại Staples Center, Los Angeles với người dẫn chương trình tiếp tục là LL Cool J. – Giải Grammy lần thứ 55 sẽ có thêm ba hạng mục mới đó là Best Classical Compendium, Best Latin Jazz Album và Best Urban Contemporary Album, nâng tổng số giải thưởng lên 81 giải.

Giải Grammy lần thứ 56 được tổ chức vào ngày 26 tháng 1 năm 2014 tại Trung tâm Staples, Los Angeles.

Giải Grammy lần thứ 57 được tổ chức vào ngày 8 tháng 2 năm 2015, tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California.

Giải Grammy lần thứ 58 diễn ra vào thứ Hai, ngày 15 tháng 2 năm 2016 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California.

Lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 59 đã diễn ra vào ngày 12 tháng 2 năm 2017.

Lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 60 diễn ra vào ngày 28 tháng 1 năm 2018.

Green Day là một ban nhạc punk rock của Mỹ thành lập năm 1986.

Guy Rupert Berryman (sinh 12 tháng 4 năm 1978) là một nhạc sĩ người Scotland, chơi nhiều loại nhạc cụ kiêm nhà sản xuất.

Hayley Nichole Williams (sinh ngày 27 tháng 12 năm 1988 tại Meridian, Mississippi) là một ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ.

“Heathens” là một ca khúc do bộ đôi nhóm nhạc người Mỹ Twenty One Pilots viết và thu âm, phát hành làm đĩa đơn chính cho nhạc phim Biệt đội cảm tử (2016) vào ngày 16 tháng 6 năm 2016, thông qua Atlantic Records và Warner Bros. Records.

Hoa Kỳ, còn gọi là Mỹ, tên gọi đầy đủ là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hoặc Hợp chúng quốc Mỹ (tiếng Anh: United States of America viết tắt là U.S. hoặc USA), là một cộng hòa lập hiến liên bang gồm 50 tiểu bang và 1 đặc khu liên bang.

“Hold Back the River” là một ca khúc của ca sĩ-người viết nhạc người Anh James Bay.

“I’d Do Anything for Love (But I Won’t Do That)” là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Meat Loaf hợp tác với ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Lorraine Crosby cho album phòng thu thứ sáu của ông, Bat Out of Hell II: Back into Hell (1993).

John Anthony “Jack” White (nhũ danh Gillis; sinh ngày 9 tháng 7 năm 1975) là một nhạc sĩ, ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, nhà sản xuất thu âm và diễn viên người Mỹ.

James Michael Bay (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1990) là một ca sĩ, người viết nhạc và nghệ sĩ guitar người Anh.

Jonathan Mark “Jonny” Buckland (sinh 11 tháng 9 năm 1977) là một nhạc sĩ kiêm nhạc công người Anh.

Keith Richards (sinh ngày 18 tháng 12 năm 1943) là nghệ sĩ chơi guitar chính và đồng sáng lập của ban nhạc rock người Anh, The Rolling Stones.

Kings of Leon là một ban nhạc rock của Mỹ, được thành lập ở Nashville, Tennesse vào năm 2000.

Krist Anthony Novoselic (Krst Novoselić; sinh ngày 16 tháng 5 năm 1965) là nhạc sĩ người Mỹ, nổi tiếng trong vai trò tay bass của ban nhạc Nirvana.

“Kryptonite” là một ca khúc của ban nhạc rock Mỹ 3 Doors Down.

Kurt Donald Cobain (20 tháng 2 năm 1967-5 tháng 4 năm 1994) là một ca sĩ người Mỹ, được biết tới như một thủ lĩnh, một ca sĩ, một tay guitar điệu nghệ và là người viết nhạc cho Nirvana.

“Layla” là ca khúc sáng tác bởi Eric Clapton và Jim Gordon, được phát hành bởi nhóm nhạc blues rock Derek and the Dominos, trong album Layla and Other Assorted Love Songs (1970).

“Lonely Boy” là một ca khúc của ban nhạc rock Mỹ The Black Keys.

Tòa soạn báo ”Los Angeles Times” Los Angeles Times (tiếng Anh của Thời báo Los Angeles, viết tắt LA Times) là một nhật báo được xuất bản tại Los Angeles, California và được phân phối ở khắp miền Tây Hoa Kỳ.

“Madness” là một bài hát của ban nhạc alternative rock Anh Muse.

Matchbox Twenty (còn được viết là Matchbox 20 hay MB20) là một ban nhạc Mỹ được thành lập năm 1995 tại Orlando, Florida.

Matthew James Bellamy (sinh ngày 9 tháng 6 năm 1978) là một nghệ sĩ, nhà soạn nhạc người Anh.

Metallica là ban nhạc thrash metal của Mỹ, thành lập ngày 28 tháng 10 năm 1981.

Ngài Michael Philip “Mick” Jagger (sinh 26 tháng 7 năm 1943) là một ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên và nhà sản xuất người Anh.

MTV (Music Television hay Kênh truyền hình âm nhạc) là một kênh truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh của Mỹ thuộc sở hữu của MTV Networks Music & Logo Group, một đơn vị của bộ phận Viacom Media Networks trực thuộc tập đoàn Viacom.

Mumford & Sons là một ban nhạc Anh theo thể loại rock dân gian (folk rock).

Muse là ban nhạc rock của Anh, được thành lập năm 1994 tại Teignmouth, Devon.

Neil Percival Young (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1945 tại Toronto, Canada) là một ca sĩ và nghệ sĩ guitar chơi nhạc đồng quê, rock và dân ca Canada nổi tiếng trong thập niên 70.

Nickelback là một ban nhạc Alternative Rock được thành lập tại Hanna, Alberta gồm có Chad Kroeger, Mike Kroeger, Ryan Peake và tay trống Brandon Kroeger (Brandon sau đó được thay thế bởi Mitch Guindon, và tiếp tục được thay thế bởi Ryan Vikedal, gần đây nhất là Daniel Adair, tay trống hiện tại của Nickelback).

Nirvana là một ban nhạc rock người Mỹ thành lập bởi ca sĩ kiêm guitarit Kurt Cobain và bassist Krist Novoselic tại Aberdeen, Washington vào năm 1987.

New Musical Express (NME) là một tạp chí âm nhạc của Anh xuất bản từ năm 1949.

Noel Thomas David Gallagher (sinh ngày 29 tháng 5 năm 1967) là một ca sĩ, nhà viết nhạc và guitarist người Anh.

Oasis là ban nhạc rock của Anh được thành lập tại thành phố Manchester vào năm 1991.

John Michael Osbourne (sinh ngày 3 tháng 12 năm 1948), được biết đến như Ozzy Osbourne, là ca sĩ chính trong ban nhạc heavy metal Black Sabbath, ca sĩ hát đơn và ngôi sao trong reality television.

“Panic Station” là một ca khúc của ban nhạc rock Muse, là đĩa đơn thứ năm được phát hành từ album phòng thu thứ sáu của nhóm The 2nd Law ngày 31 tháng 5 năm 2013.

Paramore (phiên âm quốc tế: /ˈpærəmɔər/) là một ban nhạc rock của Mỹ, được thành lập tại Franklin, Tennessee vào năm 2004, gồm có các thành viên Hayley Williams (hát chính/keyboard), Josh Farro (guitar chính/ hát đệm), Taylor York (guitar rhythm), Jeremy Davis (guitar bass), và Jack Farro (trống).

Chữ ký của Paul McCartney Ngài James Paul McCartney, MBE (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1942 tại thành phố Liverpool) là nhạc sĩ, ca sĩ, cựu thành viên nổi tiếng của The Beatles (1960-1970) và Wings (1971-1981).

PDF (viết tắt từ tên tiếng Anh Portable Document Format, Định dạng Tài liệu Di động) là một định dạng tập tin văn bản khá phổ biển của hãng Adobe Systems.

Pearl Jam là ban nhạc rock người Mỹ, thành lập tại Seattle, Washington vào năm 1990.

Peter Brian Gabriel (sinh ngày 13 tháng 2 năm 1950) là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm và người làm từ thiện nhân đạo người Anh.

Radiohead là ban nhạc tới từ Abingdon, Oxfordshire, được thành lập vào năm 1985.

Red Hot Chili Peppers, đôi khi rút ngắn thành “The Chili Peppers” hoặc viết tắt là “RHCP”, là một ban nhạc funk rock Mỹ thành lập tại Los Angeles năm 1983.

“Resistance” là một ca khúc của ban nhạc alternative rock người Anh Muse, được phát hành từ album phòng thu thứ năm của nhóm The Resistance, do giọng ca chính kiêm nghệ sĩ chơi ghita và piano Matthew Bellamy sáng tác.

Rock là một thể loại âm nhạc quần chúng được bắt nguồn từ cách gọi ngắn gọn của cụm từ “rock and roll” vào những năm 1950 ở Mỹ, rồi sau đó phát triển thành rất nhiều tiểu thể loại khác nhau từ những năm 60 của thế kỷ 20 và sau đó, đặc biệt ở Anh và Mỹ.

“Seven Nation Army” là ca khúc mở đầu trong album Elephant của ban nhạc alternative rock người Mỹ, The White Stripes.

“Sex On Fire” là đĩa đơn đầu tiên được phát hành từ album phòng thu thứ tư của ban nhạc Alternative rock Mỹ Kings of Leon.

“Smells Like Teen Spirit” là một bài hát của ban nhạc rock Mỹ Nirvana.

Snow Patrol nhóm nhạc rock Bắc Ireland được thành lập năm 1993, gồm các thành viên Gary Lightbody (hát, guitar), Nathan Connolly (guitar, giọng bè), Paul Wilson (guitar bass, giọng bè), Jonny Quinn (trống), và Johnny McDaid (piano, guitar, giọng bè).

“Somebody Told Me” (tạm dịch Có ai đó bảo tôi) là một bài hát của ban nhạc rock Mỹ The Killers.

Soundgarden là một ban nhạc rock người Mỹ thành lập tại Seatle, Washington năm 1984 bởi ca sĩ kiêm guitarist rhythm Chris Cornell, guitarist chính Kim Thayil và bassist Hiro Yamamoto.

“Speed of Sound” (tạm dịch: “Tốc độ âm thanh”) là một ca khúc của ban nhạc alternative rock người Anh Coldplay.

Steven Tyler (Tên thật là Steven Victor Tallaricco; sinh ngày 26 tháng 3 năm 1948, tại Mỹ) là một ca sĩ, người viết nhạc, và là một tay chơi guitar, harmonica, piano, đồng thời là ca sĩ chính của ban nhạc Aerosmith.

Gordon Matthew Thomas Sumner CBE (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1951), được biết đến với tên trong nghề là Sting, là một nhạc sĩ, ca sĩ-người viết nhạc và diễn viên người Anh.

The Black Keys là một ban nhạc rock hai người Mỹ thành lập năm 2001 ở Arkon, Ohio.

David Howell Evans (sinh ngày 8 tháng 8 năm 1961), được biết đến với nghệ danh The Edge (hoặc chỉ Edge), là một nhạc sĩ người Ireland, được biết tới nhiều nhất khi là guitar chính, keyboard và là ca sĩ của ban nhạc rock U2.

The Killers là một ban nhạc rock của người Mỹ thành lập ở Las Vegas, Nevada năm 2001 do Brandon Flowers (hát chính, keyboards) và Dave Keuning (guitar, hát phụ) sáng lập.

Tòa soạn cũ của ”The New York Times” tại số 229 Đường 43 Tây ở Thành phố New York The New York Times (tên tiếng Việt: Thời báo Niu-Oóc, Thời báo Nữu Ước hay Nữu Ước Thời báo) là một nhật báo được xuất bản tại Thành phố New York bởi Arthur O. Sulzberger Jr. và được phân phối ở khắp Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới.

“The Pretender” là một bài hát của ban nhạc Rock của Mỹ Foo Fighters.

The Rolling Stones là một ban nhạc Anh, ban nhạc có thể loại âm nhạc rock and roll pha trộn với nhạc blues, rhythm and blues đã trở nên phổ biến trong thời kỳ “British Invasion” đầu thập niên 1960.

The Verve là một ban nhạc rock người Anh thành lập vào năm 1990 tại Wigan bởi giọng ca chính Richard Ashcroft, guitarist Nick McCabe, bassist Simon Jones và tay trống Peter Salisbury.

The White Stripes là ban nhạc song ca người Mỹ được thành lập vào năm 1997 ở Detroit, Michigan, Mỹ.

Thomas Edward “Thom” Yorke (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1968) là một nhạc sĩ người Anh, nổi tiếng nhất trong vai trò là ca sĩ và người viết nhạc chính của ban nhạc Alternative rock Radiohead.

“Tighten Up” là một ca khúc của ban nhạc rock Mỹ The Black Keys.

Thomas Earl “Tom” Petty (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1950, mất ngày 2 tháng 10 năm 2017) là nhạc sĩ, ca sĩ, nhạc công đa nhạc cụ và diễn viên người Mỹ.

Train là một ban nhạc rock của Mỹ thành lập năm 1993 ở San Francisco.

Twenty One Pilots (cách điệu thành TWENTY ØNE PILØTS, viết tắt TØP) là một bộ đôi âm nhạc Mỹ từ Columbus, Ohio.

Tyler Joseph (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1988) là một nghệ sĩ và rapper người Mỹ.

U2 là một ban nhạc rock đến từ Dublin, Ireland.

“Uninvited” là một ca khúc của nghệ sĩ thu âm và người viết nhạc Canada – Mỹ Alanis Morissette làm đĩa đơn từ nhạc phim của City of Angel vào tháng 3 năm 1988, trở thành bản thu âm đầu tiên của Morissette kể từ album đầu tay quốc tế của cô.

Unplugged là album trực tiếp của Eric Clapton, được phát hành vào năm 1992.

Logo mới Trụ sở USA Today tại Tysons Corner, Virginia USA Today (tiếng Anh của “Hoa Kỳ Hôm nay”) là một tờ báo được xuất bản bởi Gannett Corporation và được phân phối khắp Hoa Kỳ.

“Use Somebody” là một ca khúc của ban nhạc alternative rock Mỹ Kings of Leon.

Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia, hay Viện hàn lâm Thu âm (National Academy of Recording Arts and Sciences; The Recording Academy; NARAS) là tên gọi một tổ chức của các nhạc sĩ, nhà sản xuất, kỹ sư thu âm và các hãng ghi âm Hoa Kỳ.

“Violet Hill” là một bài hát của ban nhạc alternative rock nước Anh Coldplay.

“Walk” là bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Foo Fighters, được phát hành là đĩa đơn thứ 2 từ album phòng thu thứ 7 của ban nhạc Wasting Light.

“Walk On” là một bài hát của ban nhạc Ireland U2.

Weezer là một ban nhạc rock người Mỹ thành lập tại Los Angeles năm 1992. Ban nhạc gồm Rivers Cuomo (hát chính, lead guitar), Patrick Wilson (trống), Brian Bell (rhythm guitar, hát phụ, bàn phím), và Scott Shriner (bass, hát phụ). Ban nhạc thay đổi nhân sự ba lần từ năm 1992. Weezer đã bán được 9,200,000 album tại Mỹ và 17,525,000 album toàn cầu. Sau khi ký hợp đồng với Geffen Records năm 1993, Weezer phát hành album self-titled đầu tay, được biết đến như Album lam (The Blue Album), năm 1994. Ba đĩa đơn được phát hành từ album, “Buddy Holly”, “Undone – The Sweater Song” and “Say It Ain’t So”, Album lam nhận được ba chứng nhận bạch kim RIAA và được cách nhà phê bình tán thưởng. Album thứ hai của Weezer, Pinkerton (1996), không nhận được nhiều thành công và ban đầu nhận được các đánh giá trái chiều, nhưng lại được các nhà phê bình tung hô các năm sau đó. Cả Album lam và Pinkerton thường xuyên nằm trong các danh sách album hay nhất thập kỷ 1990. Sau Pinkerton, tay bass Matt Sharp bỏ ban nhạc và Weezer gián đoạn. Năm 2001, Weezer trở lại với một album self-titled khác, được biết đến như Album lục (The Green Album), với tay bass mới Mikey Welsh. Nhờ các đĩa đơn “Hash Pipe” và “Island in the Sun”, The Green Album đạt thành công thương mại và nhiều đánh giá tích cực. Sau khi album phát hành, Welsh rời ban nhạc và được thay bằng Scott Shriner. Ablum thứ tư của Weezer, Maladroit, phát hành tháng 5 năm 2002 cũng nhận được đánh giá tích cực, nhưng không đạt thành công thương mại như Album lục. Album thứ năm, Make Believe, phát hành tháng 5 năm 2005; nhận được đánh giá trái chiều, đĩa đơn “Beverly Hills” trở thành bài hát đầu tiên của Weezer đứng đầu US Modern Rock Tracks và đạt top 10 tại ”Billboard” Hot 100. Tháng 6, 2008, Album self-titled thứ ba, được biết đến như Album đỏ (The Red Album), với các hiện ứng “TR-808, synth, Southern rap, và đối âm baroque”. Đĩa đơn “Pork and Beans”, là bài hát thứ ba của ban đứng đầu Modern Rock Tracks chart. Alum thứ bảy Weezer, Raditude (2009) và thứ tám Hurley (2010), với nhiều “sản phẩm pop hiện đại” và các bài hát được đồng sáng tác với các nghệ sĩ khác, nhận được các đánh giá trái chiều. Album thứ chín, Everything Will Be Alright in the End, phát hành tháng 10 năm 2014 và là album được đánh giá cao nhất từ Pinkerton.

William “Will” Champion (sinh 31/7/1978) là một nhạc sĩ kiêm nhạc công người Anh.

“With Wide Arms Open” (Phiên bản đàn cello và vĩ cầm) (tạm dịch: Với vòng tay rộng mở) là một ca khúc của ban nhạc post-grunge người Mỹ Creed do giọng ca chính Scott Stapp và Mark Tremonti sáng tác.

“Wonderwall” là một bài hát của ban nhạc Anh quốc Oasis nằm trong album phòng thu thứ hai của họ, (What’s the Story) Morning Glory? (1995).

“Yellow” là một bài hát của ban nhạc Alternative rock nước Anh Coldplay.

“You Oughta Know” là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Canada gốc Mỹ Alanis Morissette nằm trong album phòng thu thứ ba của cô, Jagged Little Pill (1995).

“21 Guns” là một bài hát của ban nhạc rock Hoa Kỳ Green Day.

3 Doors Down là một ban nhạc – Mỹ rock band từ Escatawpa, Mississippi, được thành lập vào năm 1996.

Giải Grammy cho Bài hát Rock hay nhất, Grammy Award for Best Rock Song.

Các Đề Cử ‘Bài Hát Của Năm’ Grammy 2022

“Tell me somethin’, girl Are you happy in this modern world? Or do you need more? Is there somethin’ else you’re searchin’ for?”

“Nói cho anh biết, em ơi Em có hạnh phúc với thế giới hiện đại này Hay em ước mong nhiều hơn thế Còn điều gì em vẫn đang kiếm tìm?”

Ca khúc Shallow nằm trong album nhạc phim A Star is Born do Interscope Records phát hành ngày 5/10/2018. Bài hát vào Top 10 nghe nhiều nhất trên Itunes. Trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, Shallow cũng đứng vị trí cao. Nhạc phẩm do Lady Gaga đồng sáng tác.

Bài hát vừa chiến thắng hạng mục “Nhạc phim hay nhất” tại Quả Cầu Vàng đầu tháng 1. Người hâm mộ hy vọng tác phẩm của Lady Gaga và Bradley Cooper một lần nữa được vinh danh tại Grammy và Oscar.

All the Stars do Kendrick Lamar, SZA, Sounwave và Al Shux đồng sáng tác. MV ca khúc ra mắt ngày 6/2, là single đầu tiên trích từ album nhạc phim Black Panther. Ca khúc được nhiều chuyên gia đánh giá cao. Jon Blistein của Rolling Stone khen ngợi chất giọng trong, sáng của SZA trong phần điệp khúc. Sau gần một tháng ra mắt, MV đạt 44,6 triệu lượt xem trên Youtube.

Ca khúc ra mắt tháng 4 năm ngoái, do ca sĩ Ella Mai đồng sáng tác với Joelle James, Dijon McFarlane và Larrance Dopson. Tác phẩm mang âm hưởng R&B, nói về cảm giác xao xuyến khi yêu. Bài hát giúp Ella Mai nổi tiếng hơn ở Mỹ, là single đầu tiên của giọng ca da màu đạt vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng Billboard. Rolling Stones đánh giá đây là “đĩa đơn đột phá nhất của nữ nghệ sĩ R&B trong 10 năm qua”. Ngoài đề cử “Ca khúc của năm”, Boo’d Up nhận đề cử “Ca khúc R&B xuất sắc”.

God’s Plan ra mắt tháng 1 năm ngoái. Trong ca khúc, Drake mô tả quê nhà Toronto (Canada), cuộc sống xa hoa khi nổi tiếng và những mặt trái khi trở thành người của công chúng. Single thu được nhiều thành công trên toàn thế giới. Ở Mỹ, God’s Plan đứng đầu bảng xếp hạng Billboard và trở thành ca khúc được nghe nhiều nhất năm qua, với 1,5 tỷ lượt phát theo yêu cầu. Bài hát cũng đứng đầu bảng xếp hạng Canada, Đan Mạch, Đức, Hy Lạp, Italy, Bồ Đào Nha… Nhiều tạp chí âm nhạc đánh giá đây là ca khúc xuất sắc nhất của Drake.

Video được quay ở Miami (Mỹ). Trong đó, Drake tham gia nhiều hoạt động từ thiện ở địa phương. Trong quá trình thực hiện, anh đóng góp 145.000 USD cho người dân bản địa.

“Help me, it’s like the walls are caving in Sometimes I feel like giving up But I just can’t It isn’t in my blood”

“Giúp tôi với, tôi cảm giác mọi thứ đang đổ sập xuống Đôi khi, tôi chỉ muốn buông xuôi Nhưng tôi không thể Đó không phải là tôi”

In My Blood do Shawn Mendes đồng sáng tác, được viết về chính trải nghiệm của anh với chứng trầm cảm. Ca sĩ tâm sự đây là tác phẩm chân thành nhất anh từng viết.

Mang âm hưởng Pop pha trộn Rock Ballad, In My Blood được nhiều chuyên gia âm nhạc đánh giá bắt tai. Tờ New York Times nhận xét ca khúc có chất lượng vượt trội so với các sản phẩm trước đó của “Hoàng tử nhạc Pop”. Hugh McIntyre của tạp chí Forbes đánh giá Shawn Mendes thể hiện sự chín chắn, trưởng thành qua nhạc phẩm. Single In My Blood đứng thứ 11 ở Mỹ, 13 ở Anh và thứ chín ở Canada. Tháng 3/2018, Shawn Mendes ra mắt phiên bản tiếng Bồ Đào Nha của ca khúc để cổ vũ đội tuyển bóng đá quốc gia nước này tại World Cup 2018.

“I see you tugging on your shirt Trying to hide inside of it and hide how much it hurts I saw your eyes behind your hair And you’re looking tired, but you don’t look scared”

“Tôi thấy bạn vò mạnh chiếc áo của mình Cố gắng che giấu những nỗi đau… Tôi thấy đôi mắt của bạn khuất lấp sau mái tócBạn trông có vẻ mệt mỏi nhưng bạn không sợ hãi”

Ca khúc được Brandi Carlie phát hành ngày 13/11/2017, nói về việc đấu tranh cảm xúc của mỗi cá nhân để phù hợp với chuẩn mực xã hội hiện đại. Carlie nói bài hát dành cho những người cảm thấy không được sống đúng với con người thật của mình, không được yêu thương. Đĩa đơn nhận được nhiều đánh giá tích cực khi phát hành. Tạp chí American Songwriter gọi The Joke là “một kiệt tác thực thụ”. Trang The A.V Club nhận xét họ thích cách kể chuyện của Brandi Carlie và ca ngợi phần điệp khúc giàu cảm xúc. Ngoài đề cử “Ca khúc của năm”, The Joke còn nhận đề cử “Ghi âm của năm”,

The Middle do Zedd, Maren Morris và nhóm Grey hợp tác phát hành. Ca khúc mang âm hưởng R&B, được tạp chí Taste of Country chỉ ra ca khúc lôi cuốn nhờ pha trộn thêm âm hưởng của EDM, nhạc Pop thập niên 1900 và nhạc đồng quê hiện đại. Ngoài đề cử “Ca khúc của năm”, Rolling Stones nhận xét “bắt tai, gây nghiện”. Tạp chí Fuse và Idolator đánh giá cao giọng hát của Morris. Trong khi đó, tờ The Middle là ứng viên của đề cử “Bài hát của năm”, “Trình diễn bộ đôi/nhóm xuất sắc”.

This Is America do Childish Gambino và Ludwig Göransson đồng sáng tác. Phát hành ngày 5/5/2018, ca khúc ngay lập tức đoạt quán quân bảng xếp hạng Billboard (Mỹ). Gambino thể hiện ca khúc cùng loạt rapper đình đám – Young Thug, Slim Jxmmi, BlocBoy JB, 21 Savage và Quavo. Trong MV, Gambino nhảy trong một nhà kho. Phía sau anh, nhiều cảnh giết chóc, đánh đuổi diễn ra.

Theo đạo diễn Murai, MV được lấy cảm hứng từ bộ phim Mother! and City of God. This Is America đề cập đến xung đột sắc tộc tại Mỹ, mô tả sự khó khăn của những người da màu khi sống ở đất nước này. Time khen ngợi ca khúc có nội dung ý nghĩa, giai điệu gây nghiện. Sau một tháng ra mắt, MV bài hát đạt 237 triệu lượt xem trên Youtube và được tạp chí Times đánh giá là một trong những bài hát hay nhất nửa đầu năm 2018

Grammy là giải thưởng được tổ chức thường niên bởi Viện thu âm nghệ thuật và khoa học quốc gia Mỹ, nhằm tôn vinh những nghệ sĩ có đóng góp xuất sắc cho ngành công nghiệp âm nhạc. Sự kiện được tổ chức lần đầu năm 1959. Lễ trao giải Grammy 2019 diễn ra vào sáng 11/2 (tức ngày 10/2 tại Los Angeles, Mỹ).

Một số hạng mục chính tại Grammy 2019

I Like It – Cardi B, Bad Bunny & J BalvinThe Joke – Brandi CarlileThis Is America – Childish GambinoGod’s Plan – DrakeShallow – Lady Gaga, Bradley CooperAll The Stars – Kendrick Lamar, SZARockstar – Post Malone, 21 SavageThe Middle – Zedd, Maren Morris & Grey

Invasion of Privacy – Cardi BBy The Way, I Forgive You – Brandi CarlileScorpion – DrakeH.E.R – H.E.RBeerbongs & Bentleys – Post MaloneDirty Computer – Janelle MonáeGolden Hour – Kacey MusgravesBlack Panther: The Album, Music From And Inspired By – Various Artists

All The Stars – Kendrick Lamar & SZABoo’d Up – Ella MaiGod’s Plan – DrakeIn My Blood – Shawn MendesThe Joke – Brandi CarlileThe Middle – Zedd, Maren Morris & GreyShallow – Lady Gaga & Bradley CooperThis Is America – Childish Gambino

Chloe X Halle Luke Combs Greta Van Fleet H.E.R Dua Lipa Margo Price Bebe Rexha Jorja Smith

Camila – Camila Cabello Meaning Of Life – Kelly Clarkson Sweetener – Ariana Grande Shawn Mendes – Shawn Mendes Beautiful – Trauma P!nk Reputation – Taylor Swift

Album nhạc Dance/Electronic xuất sắc

Singularity – Jon HopkinsWoman Worldwide – JusticeTreehouse – Sofi TukkerOil Of Every Pearl’s Un-Insides – SOPHIELune Rouge – TOKiMONSTA

Hà Thu

Giải Grammy Cho Ca Khúc Nhạc Phim Hay Nhất

Giải Grammy cho Ca khúc nhạc phim hay nhất (tên gốc tiếng Anh: Grammy Award for Best Song Written for Visual Media) bắt đầu được trao tặng từ năm 1988 dành cho những bài hát được sáng tác trong phim ảnh, truyền hình, video trò chơi hoặc các phương tiện truyền thông khác. Giải đã nhiều lần đổi tên trong các năm qua:

1988-1999: Giải Grammy cho Ca khúc thuộc thể loại phim điện ảnh hoặc truyền hình (tiếng Anh: The Grammy Award for Best Song Written Specifically for a Motion Picture or for Television).

2000-2011: Giải Grammy cho Ca khúc thuộc thể loại phim điện ảnh, truyền hình hoặc phương tiện truyền thông khác (tiếng Anh: The Grammy Award for Best Song Written for a Motion Picture, Television or Other Visual Media).

2012-nay: Giải Grammy cho Ca khúc nhạc phim hay nhất (tiếng Anh: The Grammy Award for Best Song Written for Visual Media).

Giải sẽ được trao cho các nhạc sĩ sáng tác bài hát chứ không phải nghệ sĩ biểu diễn (trừ khi nghệ sĩ biểu diễn cũng sáng tác bài hát đó). Các đề cử của giải cũng sẽ được tính cho các bài hát phát hành vào năm trước đó.

Danh sách chi tiết

Thập niên 2010

Giải Grammy lần thứ 58 (2016)

Selma – Common & Che Smith & John Legend cho bài hát “Glory”

Giải Grammy lần thứ 56 (2014)

Giải Grammy lần thứ 54 (2013)

Giải Grammy lần thứ 54 (2012)

– Alan Menken & Glenn Slater cho bài hát “I See the Light” (Mandy Moore & Zachary Levi trình diễn)

Never Say Never – Diane Warren cho bài hát “Born To Be Somebody” (Justin Bieber trình diễn)

Family Guy – Ron Jones, Seth MacFarlane & Danny Smith cho bài hát “Christmastime Is Killing Us” (Bruce McGill and Seth MacFarlane trình diễn)

Winnie The Pooh – Zooey Deschanel cho bài hát “So Long” (Zooey Deschanel & M. Ward trình diễn)

Footloose – Zac Brown, Wyatt Durrette, Drew Pearson & Anne Preven cho bài hát “Where The River Goes” (Zac Brown trình diễn)

Giải Grammy lần thứ 53 (2011)

Crazy Heart – Ryan Bingham & T Bone Burnett; Ryan Bingham – cho bài hát “The Weary Kind”

The Princess and the Frog – Randy Newman (songwriter); Dr. John – cho bài hát “Down in New Orleans”

– Simon Franglen, Kuk Harrell & James Horner (songwriters); Leona Lewis – cho bài hát “I See You (Theme from Avatar)”

True Blood – Lucinda Williams; Lucinda Williams & Elvis Costello – cho bài hát “Kiss Like Your Kiss”

Treme – Steve Earle; Steve Earle – cho bài hát “This City”

Slumdog Millionaire – Gulzar; A.R. Rahman; Tanvi Shah – For the song “Jai Ho“

Where the Wild Things Are – Karen O; Nick Zinner – For the song “All Is Love”

Cadillac Records – Ian Dench; James Dring; Amanda Ghost; Beyoncé Knowles; Scott McFarnon; Jody Street – For the song “Once In A Lifetime”

The Wrestler – Bruce Springsteen – cho bài hát “The Wrestler”

^ “The Climb”, bài hát được sáng tác bởi Jessi Alexander và Jon Mabe trong bộ phim Hannah Montana: The Movie, ban đầu đã được đề cử nhưng hãng Walt Disney rút lại vì nó không được viết riêng cho bộ phim để đáp ứng điều kiện đề cử. Nhà phát hành NARAS đã cảm ơn Disney cho sự trung thực của mình cho bài hát “The Climb”, sau đó được thay thế bởi “All Is Love”, bài hát có lượng số phiếu bầu cao thứ năm.

Thập niên 2000

Giải Grammy lần thứ 51 (2009)

Giải Grammy lần thứ 50 (2008)

Giải Grammy lần thứ 49 (2007)

Giải Grammy lần thứ 48 (2006)

47th Grammy Awards (2005)

The Lord of the Rings: The Return of the King – Annie Lennox; Howard Shore; Fran Walsh – cho bài hát “Into the West”

Cold Mountain – Sting – For the song “You Will Be My Ain True Love”

Shrek 2 – David Bryson; Adam Duritz; David Immerglück; Matthew Malley; Dan Vickrey – For the song “Accidentally In Love”

Les Triplettes de Belleville – Benoît Charest; Sylvain Chomet – For the song “Belleville Rendez-Vous”

46th Grammy Awards (2004)

A Mighty Wind – Christopher Guest; Eugene Levy; Michael McKean – cho bài hát “A Mighty Wind”

2 Fast 2 Furious – Ludacris; Keith McMasters – cho bài hát “Act A Fool”

Chicago – Fred Ebb; John Kander – cho bài hát “I Move On”

Gangs of New York – U2 – cho bài hát “The Hands That Built America”

Giải Grammy lần thứ 45 (2003)

Monsters, Inc. – Randy Newman – cho bài hát “If I Didn’t Have You”

Brown Sugar – Erykah Badu; Madukwu Chinwah; Common; Robert C. Ozuna; James Poyser; Raphael Saadiq; Glen Standridge – cho bài hát “Love Of My Life – An Ode To Hip Hop”

Spider-Man – Chad Kroeger – cho bài hát “Hero”

Vanilla Sky – Paul McCartney – cho bài hát “Vanilla Sky”

Giải Grammy lần thứ 44 (2002)

“Malcolm in the Middle” – John Flansburgh; John Linnell – cho bài hát “Boss of Me”

The Emperor’s New Groove – David Hartley; Sting – cho bài hát “My Funny Friend And Me”

Men of Honor – Brandon Barnes; Brian McKnight – cho bài hát “Win”

Pearl Harbor – Diane Warren – cho bài hát “There You’ll Be”

Crouching Tiger, Hidden Dragon – Jorge Calandrelli; Tan Dun; James Schamus – cho bài hát “A Love Before Time”

Giải Grammy lần thứ 43 (2001)

Toy Story 2 – Randy Newman – cho bài hát “When She Loved Me”

Magnolia – Aimee Mann – cho bài hát “Save Me”

Man on the Moon – Peter Buck; Mike Mills; Michael Stipe – cho bài hát “The Great Beyond”

Wonder Boys – Bob Dylan – cho bài hát “Things Have Changed”

Giải Grammy lần thứ 42 (2000)

Soạn Văn Bài Những Câu Hát Than Thân Lớp 7 Bài Ngắn Gọn Hay Nhất

Soạn văn bài Những câu hát than thân lớp 7 bài ngắn gọn hay nhất : Câu 2 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1): Ở bài 1, cuộc đời lận đận, vất vả của cò được diễn tả như thế nào? Ngoài nội dung than thân, bài ca dao này còn có nội dung nào khác? Câu 3 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1): Em hiểu cụm từ “thương thay” như thế nào? Hãy chỉ ra những ý nghĩa của sự lặp lại cụm từ này trong bài 2?

Soạn văn lớp 7 trang 49 tập 1 bài Những câu hát than thân ngắn gọn hay nhất

Câu hỏi bài Những câu hát than thân tập 1 trang 49

Câu 1 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Trong ca dao, người nông dân thời xưa thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời, thân phận của mình. Em hãy sưu tầm một số bài ca dao để chứng minh điều đó và giải thích vì sao?

Câu 2 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Ở bài 1, cuộc đời lận đận, vất vả của cò được diễn tả như thế nào? Ngoài nội dung than thân, bài ca dao này còn có nội dung nào khác?

Câu 3 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Em hiểu cụm từ “thương thay” như thế nào? Hãy chỉ ra những ý nghĩa của sự lặp lại cụm từ này trong bài 2?

Câu 4 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Phân tích những nỗi thương thân của người lao động qua các hình ảnh ẩn dụ trong bài 2

Câu 5 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Em hãy sưu tầm một số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “thân em”. Những bài ca dao ấy thường nói về ai, về điều gì, và thường giống nhau như thế nào về nghệ thuật?

Câu 6 (trang 49 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Bài 3 nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Hình ảnh so sánh ở bài này có gì đặc biệt? Qua đây em thấy cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến như thế nào?

Sách giải soạn văn lớp 7 bài Những câu hát than thân

Trả lời câu 1 soạn văn bài Những câu hát than thân trang 49

Những bài ca dao sử dụng hình ảnh con cò:

– Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non

– Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống sông

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

→ Người nông dân thời xưa thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời, thân phận của mình. Đây là con vật nhỏ bé, hiền lành, chịu khó kiếm ăn

Trả lời câu 2 soạn văn bài Những câu hát than thân trang 49

Cuộc đời lận đận, vất vả, cay đắng của con cò được diễn tả:

+ Thông qua từ láy “lận đận” và thành ngữ “lên thác xuống ghềnh”: diễn tả hết nỗi vất vả, lận đận của con cò

→ Đối lập cái nhỏ bé, yếu ớt với cái dữ dội, bếp bênh, gập ghềnh

+ Câu hỏi tu từ: diễn đạt nỗi oan trái mà cò gặp phải và sự gieo neo, khó nhọc, cay đắng của người lao động xưa

Nội dung của bài ca dao:

+ Than thân: mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời, thân phận của những người lao động cũ

+ Phản kháng: câu hỏi tu từ thể hiện thái độ bất bình với kẻ làm cho người nông dân lận đận, lên thác xuống ghềnh

Trả lời câu 3 soạn văn bài Những câu hát than thân trang 49

Cụm từ “Thương thay”: tiếng than biểu hiện sự đồng cảm, thương xót ở mức độ cao

– Thương thay được lặp lại 4 lần. Ý nghĩa của sự lặp lại đó:

+ Mỗi lần sử dụng là một lần biểu đạt tình thương một con vật, bốn cảnh ngộ khác nhau của thân phận người lao động

+ Sự lặp lại tô đậm niềm thương cảm, thương xót cuộc sống trăm bề khổ cực của người lao động

+ Sự lặp lại kết nối và mở ra những nỗi thương khác nhau, làm cho bài ca phát triển

Trả lời câu 4 soạn văn bài Những câu hát than thân trang 49

Những nỗi thương thân của người lao động thể hiện qua:

+ Thương con tằm là thương cho thân phận bị bòn rút đến cùng kiệt sức lực

+ Thương lũ kiến li ti là thương những thân phận nhỏ bé, suốt đời phải làm lụng và kiếm miếng ăn

+ Thương con hạc: thương cuộc đời phiêu bạt, khốn khó, mỏi mệt không có tương lai

+ Thương con cuốc: thương thân phận thấp cổ bé họng, tiếng than không có người động lòng, thương xót

→ Tiếng than của bốn con vật chính là tiếng than cho thân phận thấp bé, chịu nhiều bất công ngang trái trong cuộc sống

Trả lời câu 5 soạn văn bài Những câu hát than thân trang 49

Các bài ca dao bắt đầu từ Thân em

– Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân

– Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày

– Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

→ Những bài ca dao này đều nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa: họ phụ thuộc, không có quyền tự chủ, bị đối xử không công bằng…

Trả lời câu 6 soạn văn bài Những câu hát than thân trang 49

Hình ảnh so sánh đặc biệt ở chỗ:

– Trái bần, tên loại quả đồng âm với từ “bần” (nghèo khó, bần cùng)

– Hình ảnh trái bần trôi nổi, bị gió dập, sóng dồi. Sự vùi dập của gió, của sóng làm cho trái bần lênh đênh

⇒ Thân phận những người phụ nữ lênh đênh, trôi nổi, chịu nhiều sóng gió ngang trái trên đời

Câu hỏi Phần Luyện Tập bài Những câu hát than thân lớp 7 tập 1 trang 49

Nêu những đặc điểm chung về nội dung và nghệ thuật của ba bài ca dao.

Sách giải soạn văn lớp 7 bài Phần Luyện Tập

Trả lời câu soạn văn bài Phần Luyện Tập trang 49

Những điểm chung về nội dung:

– Nội dung:

+ Than thân, đồng cảm với cuộc đời đau khổ, đắng cay của người lao động

+ Tố cáo, phản kháng xã hội phong kiến

– Nghệ thuật:

+ Đều sử dụng hình thức thơ lục bát

+ Hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ, so sánh để diễn tả tâm trạng

Tags: soạn văn lớp 7, soạn văn lớp 7 tập 1, giải ngữ văn lớp 7 tập 1, soạn văn lớp 7 bài Những câu hát than thân ngắn gọn , soạn văn lớp 7 bài Những câu hát than thân siêu ngắn