Top 14 # Giải Phóng Điện Biên Phủ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Caffebenevietnam.com

Kỷ Niệm 66 Năm Ngày Giải Phóng Điện Biên Phủ (7

Nhìn lại tầm vóc chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, thế hệ hôm nay càng cảm phục hơn trí tuệ và bản lĩnh đánh giặc của dân tộc Việt Nam. Trí tuệ và bản lĩnh đó được kết tinh qua sự lãnh đạo sáng suốt tài tình và kịp thời của Đảng, đứng đầu là Hồ Chủ tịch và người trực tiếp chỉ huy là Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, sức mạnh của cả dân tộc đã được huy động một cách triệt để vào trận đánh quyết định này. Chính sức mạnh vật chất và tinh thần của cả dân tộc đã chuyển yếu thành mạnh, vừa đánh, vừa xây dựng lực lượng, càng đánh càng thắng. Đó là một trong những nhân tố quan trọng đầu tiên góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thấm nhuần đường lối kháng chiến của Đảng, nhân dân ta “đồng cam cộng khổ”, vừa đánh, vừa giam chân địch trong lòng thành phố, vừa kéo Pháp lên vùng rừng núi hiểm trở, giáng cho địch những đòn chí tử trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947; Biên giới thu đông 1950; Đường số 18, Hòa Bình, Tây Bắc, mặt trận Bình – Trị – Thiên, Thượng Lào, Đông Bắc Căm-pu-chia… Thắng lợi liên tiếp của 3 nước Đông Dương đã giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, khai thông biên giới Việt – Trung, mở rộng quan hệ giữa nước ta với thế giới, đẩy thực dân Pháp lún sâu vào thế bị động và phân tán lực lượng, làm cho chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp thất bại, tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến.

Liên tiếp thất bại trên chiến trường, Pháp cử tướng Hăng-ri Na-va – Tham mưu trưởng các lực lượng khối Bắc Đại Tây Dương, người đã từng chiến đấu trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới I, từng tham gia bình định Xy-ri-a, Ma-rốc… Với tài chỉ huy của tướng Na-va, cùng với số lượng quân đông nhất (267 tiểu đoàn trong đó có 84 tiểu đoàn quân cơ động chiến lược và phương tiện chiến tranh hiện đại; chi viện ngày càng lớn của Mỹ), Pháp hòng tìm một “lối thoát danh dự” trong cuộc chiến tranh hao người, tốn của, “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” mà nhân dân Pháp, nhân dân tiến bộ trên thế giới kịch liệt phản đối. Chính phủ Pháp hy vọng kế hoạch Na-va sẽ giúp “chuyển bại thành thắng” trong vòng 18 tháng, giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương. “Kế hoạch Na-va chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mỹ cũng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ mọi điều”(4).

Kế hoạch Na-va gồm 2 bước: Bước thứ nhất, giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc và tiến công bình định ở miền Nam, miền Trung Đông Dương, xỏa bỏ vùng tự do Liên Khu V. Bước thứ hai, thực hiện chiến lược tiến công ra Bắc, giành thắng lợi quân sự, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho chúng. Kế hoạch Na-va thể hiện rõ tham vọng “nuốt chửng Việt Nam” của Pháp và Mỹ. Tháng 9-1953, Bộ Chính trị, BCH Trung ương Đảng đã họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954. Bộ Chính trị nhận định, Kế hoạch Na-va đã gây cho ta những khó khăn mới, nhưng bản thân nó chứa đựng nhiều khó khăn và nhược điểm. Đại bộ phận địch tập trung ở đồng bằng Bắc bộ. Ở những chiến trường khác, nhất là miền núi, chúng có nhiều sơ hở và yếu. Theo đó, phải sử dụng mọi biện pháp để giữ vững và phát triển quyền chủ động tiến công chiến lược, điều những bộ phận chủ lực của ta tiến về 5 hướng chiến lược nhằm vào những nơi hiểm và tương đối yếu của chúng mà tiêu diệt, buộc quân địch phải đánh theo cách đánh của ta, trên chiến trường ta đã chuẩn bị, từ đó mà đập tan âm mưu của địch, giành lại quyền chủ động trên các chiến trường.

Tây Bắc được chọn làm hướng tiến công chính của ta, đòn tiến công chiến lược đầu tiên đã điểm trúng huyệt, khiến Na-va vội vã điều động 6 tiểu đoàn cơ động tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh với binh lực lên đến 9 tiểu đoàn. Kế hoạch Na-va bắt đầu bị đảo lộn. Na-va phải tìm cách đối phó với lực lượng của ta.

Ngày 22-11-1953, Na-va cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương với ý đồ tạo thành “pháo đài bất khả xâm phạm”, “cối xay nghiền nát chủ lực Việt Minh”. Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo, vốn là cánh đồng Mường Thanh, nằm trong vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Việt – Lào, cách hậu phương của ta (Việt Bắc) 300 – 500km đường bộ. Vì vậy, Pháp coi Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam – Thượng Lào – miền Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân. Mỹ đánh giá Điện Biên Phủ là “một tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một Véc-đoong ở Đông Nam Á” và tán dương quyết định sáng suốt của tướng Na-va.

Phân tích rõ những điều kiện giành thắng lợi, Đảng ta đã tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ để mở hàng loạt cuộc tiến công chiến lược vào hướng địch yếu, hiểm, chia nhỏ lực lượng địch vào hướng: Bắc bộ, Trung bộ, Tây Nguyên và Nam bộ, đồng thời phối hợp hiệu quả với nước bạn Lào mở các chiến dịch quan trọng ở Trung, Thượng, Hạ Lào và Đông Bắc Căm-pu-chia. Nhờ đó, ta đã làm lực lượng địch phải chia nhỏ, rải ra khắp chiến trường, hạn chế sự chi viện của chúng cho cứ điểm Điện Biên Phủ, từng bước giải phóng vùng đất đai rộng lớn, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị chiến đấu của ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung.

Thắng lợi quân sự trong kế hoạch Đông Xuân 1953-1954 đã tạo tiền đề vô cùng quan trọng để Đảng ta đưa ra đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng với Pháp tại cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị thông qua phương án mở chiến dịch Điện Biên Phủ của Tổng Quân ủy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Như vậy, cả địch và ta đều coi trận giao chiến ở Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến lịch sử. Tháng 12-1953, Hồ Chủ tịch gửi thư cho cán bộ và chiến sỹ mặt trận Điện Biên Phủ, Người căn dặn: “Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh: Quyết tâm tiêu diệt địch, Quyết tâm giữ vững chính sách, Quyết tâm tranh nhiều thắng lợi”(5).

Bên cạnh sự chuẩn bị chu đáo của cả dân tộc “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, còn có sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn Trung Quốc (đồng chí Vi Quốc Thanh làm Trưởng đoàn). Sau khi họp bàn cân nhắc những thuận lợi và khó khăn trên chiến trường giữa ta và địch, Đoàn cố vấn Trung Quốc tham mưu cho chúng ta chuẩn bị đánh Điện Biên Phủ theo phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh”, cần tranh thủ sớm, đánh nhanh bằng sức mạnh hiệp đồng của bộ binh và pháo binh tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chỉ 2 ngày 3 đêm trong điều kiện địch còn đang phòng ngự lâm thời. Đó là cách đánh mà cố vấn Mai Gia Sinh gọi là “oa tâm tạng chiến thuật” tức là dùng mũi thọc sâu “tạo nên sự rối loạn ở trung tâm phòng ngự địch ngay từ đầu, rồi từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tiêu diệt địch trong thời gian tương đối ngắn”(6).

Trước vận mệnh sinh tử tồn vong của dân tộc, nhiệm vụ tối cao được Đảng và Bác Hồ trao cho người cầm quân: “Trận này rất quan trọng phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc không đánh”. Bao đêm trăn trở, nghiên cứu, phân tích tình hình thay đổi trên chiến trường Đông Dương, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, không có lợi cho phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh”; đặc biệt, khi Na-va điên cuồng quyết tâm tăng cường xây dựng công sự, sân bay, bổ sung lực lượng cho Điện Biên Phủ lên tới 12 tiểu đoàn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có nhận định sáng suốt: “Tình hình địch còn thay đổi nên chủ trương cũng có thể thay đổi”, ông quyết định cho hoãn kế hoạch đã chuẩn bị chu đáo chờ lệnh nổ súng của quân và dân ta theo phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định này được xem là một “quyết định khó khăn nhất” trong cuộc đời cầm quân của vị Tổng Tư lệnh mới 43 tuổi!

Kế hoạch “đánh chắc, tiến chắc” được thông qua, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các mặt trận hoãn cuộc tiến công, các đơn vị lùi về địa điểm tập kết. Mặc dù trận địa đã được bố trí, pháo lớn được kéo lên vị trí chiến đấu với bao công sức và máu xương của quân và dân ta, nhưng Đại tướng vẫn quyết tâm lệnh đưa pháo xuống, rồi kéo pháo lên vào vị trí tác chiến mới. Kế hoạch tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được chuẩn bị lại theo phương châm mới “đánh chắc, tiến chắc”. Sự thay đổi phương châm tác chiến thể hiện nghệ thuật đánh giặc tài tình, thông minh của dân tộc ta và tầm nhìn chiến lược của vị Tổng chỉ huy kiệt xuất. Lần đầu tiên ở Việt Nam và cũng rất hiếm trên thế giới, vị Thống soái chỉ huy tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam đã lệnh cho quân kéo pháo lên núi cao, vào hầm chĩa thẳng pháo xuống đầu kẻ thù mà chế áp. Cách đánh này vừa bảo vệ được pháo, vừa nâng cao được uy lực, mức chính xác và mang lại hiệu quả cao nhất.

Thực hành triệt để theo phương châm mới “đánh chắc tiến chắc”, hàng ngàn hệ thống giao thông, trận địa hầm hào kiên cố nhanh chóng hoàn chỉnh, những chiếc xe thồ cần mẫn ngày đêm đưa lương thực, quân trang, quân dụng phục vụ chiến dịch. Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng, ngày 13-3-1954, quân ta được lệnh nổ súng tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây là lần đầu tiên quân ta tiến hành bao vây tiến công một tập đoàn cứ điểm trong điều kiện kẻ thù có vũ khí trang bị hiện đại hơn ta gấp bội. Cùng với việc triệt phá các nguồn hỏa lực của địch: Pháo binh, xe tăng và máy bay chi viện, hệ thống hầm hào trận địa với chiến thuật “vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt” của quân ta từng bước thắt chặt vòng vây, tạo nên sức mạnh tiến công tiêu diệt địch. Dõi theo từng bước tiến của quân và dân ta trên chiến trường, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện khen ngợi, động viên tinh thần cán bộ, đảng viên, chiến sỹ trên toàn mặt trận: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng”(7).

Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân dân ta đã chiến đấu vô cùng anh dũng, phát huy tác dụng của các loại vũ khí có trong tay, tìm ra nhiều cách đánh sáng tạo, vừa đánh độc lập, vừa đánh hợp đồng, xây dựng trận địa tiến công và vây hãm quân thù. Trải qua 3 đợt tấn công liên tục, đến ngày 7-5, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ – một “pháo đài khổng lồ không thể công phá” của thực dân Pháp đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tướng Đờ Ca-xtơ-ri và toàn bộ Bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm đã đầu hàng quân ta vô điều kiện. Lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã tung bay trên nóc hầm chỉ huy. Ở các cứ điểm xung quanh, binh lính và sỹ quan của địch lũ lượt giương cao cờ trắng ra hang.

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc oanh liệt, dân tộc Việt Nam đã đánh bại hoàn toàn kế hoạch quân sự Na-va, làm sụp đổ niềm hy vọng của các giới quân sự và chính trị ở Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, thắng lợi trên chiến trường là cơ sở, điều kiện quyết định thắng lợi trên bàn đàm phán, buộc Pháp phải ký vào Hiệp định Giơ-ne-vơ, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và Đông Dương.

Tìm hiểu thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ của dân tộc Việt Nam, nhà báo Pháp Giuyn Roi đã có một nhận xét đầy hình tượng : Không phải viện trợ bên ngoài đã đánh bại tướng Na-va, mà chính là những chiếc xe đạp Pơ-giô thồ 200, 300 ký hàng và đẩy bằng sức người, những con người ăn chưa đủ no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm ni-lông. Cái đã đánh bại tướng Na-va, không phải là phương tiện, mà là sự thông minh và ý chí của đối phương. Từ cách nhìn khách quan của những học giả, nhà báo nước ngoài, thế hệ hôm nay hiểu được rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, tài tình của Đảng, tài chỉ huy, cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, những chiếc xe thồ ấy, những con người bằng da, bằng thịt của dân tộc Việt Nam đã kiên cường bất khuất “nếm mật nằm gai” trong “56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt. Máu trộn bùn non” cùng nhau viết nên trang sử chói lọi ” 9 năm làm một Điện Biên. Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”.

Điện Biên Phủ chính là thắng lợi của sức mạnh và trí tuệ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng – nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của dân tộc Việt Nam không chỉ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà còn giành thắng lợi thần kỳ trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc sự kiện lịch sử của một số sử gia Phương Tây cho rằng: “Các anh thắng lợi là nhờ có Trung Quốc giúp và do quân đội viễn chinh Pháp không chịu đựng được muỗi a-nô-phen”. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… của thế kỷ 20, đồng thời minh chứng chân lý thời đại: “Một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của lực lượng hòa bình dân chủ và CNXH”.

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới, những bài học và ý nghĩa lớn lao của Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hôm nay. Trong mỗi giai đoạn đi lên của đất nước, tinh thần Điện Biên Phủ vẫn luôn hiện hữu, đó là ý chí quyết chiến, quyết thắng, khát vọng vươn tới độc lập, tự do, hạnh phúc của toàn thể dân tộc Việt Nam. Bằng khối óc và bàn tay của mình, bằng tài năng và sự sáng tạo, chúng ta hoàn toàn có thể biến khát vọng thành hiện thực, hướng tới xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào, mãi mãi trường tồn cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, con người Việt Nam.

(1), (3), (5), (7) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 4, tr.534; tập 7, tr.475; tập 8, tr.378, tr.434. (2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, NXB QĐND, H.1995, tr.414. (4) Đỗ Thiện – Đinh Kim Khánh, Tiếng sấm Điện Biên Phủ, NXB QĐND, H.1984, tr.61.(6) Hoàng Minh Phương, Nắm ngải cứu trên đầu đồng chí Tổng Tư lệnh, Tạp chí Xưa và nay, số 208, 3-2004, tr.10.

Phạm Thị NhungTrường Sĩ quan Lục quân 1

Điện Biên Phủ Trên Không

“Điện Biên Phủ trên không” là sự kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh lịch sử; xứng đáng là một đỉnh cao chiến thắng của văn hóa quân sự Việt Nam hiện đại. Bộ đội tên lửa những ngày đánh trận Điện Biên Phủ trên không – Ảnh: Tư liệu/Internet

Chiến dịch Điện Biên Phủ với chiến thắng “lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu” (7-5-1954) đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm của quân và dân ta. Từ đó, Điện Biên Phủ trở thành một biểu tượng chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Và không phải ngẫu nhiên, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, báo chí và công luận đã mệnh danh chiến thắng của quân, dân ta đối với cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 của chính quyền Richard Nixon vào Hà Nội, Hải Phòng tháng 12-1972 là Điện Biên Phủ trên không. Đây là cuộc đụng đầu trực diện, mang ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta với lực lượng không quân chiến lược vô cùng hiện đại và mạnh mẽ của Mỹ. Những phương tiện chiến tranh tối tân bậc nhất đã thất bại trước sức mạnh to lớn của ý chí Việt Nam, của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam. Sức mạnh ấy một phần được làm nên nhờ quân và dân ta đã bước vào cuộc chiến với tư thế sẵn sàng quyết chiến, tinh thần cảnh giác, vững vàng về tư tưởng.

NHÌN THẤU ÂM MƯU ĐỊCH, CHUẨN BỊ ĐÒN GIÁNG TRẢ

Cho đến tháng 10-1972, cuộc tiến công chiến lược của quân, dân ta ởmiền Nam đã diễn ra hơn nửa năm và giành được một số thắng lợi to lớn, làm thay đổi cục diện chiến trường. Trên miền Bắc, kể từ tháng 4-1972, quân, dân ta đã đánh bại một bước quan trọng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của không quân và hải quân Mỹ; không ngừng tăng cường sức người, sức của vào tiền tuyến lớn, cùng quân, dân miền Nam phát triển cuộc tiến công chiến lược. Tại Paris, cuộc đàm phán giữa ta và Mỹ kéo dài đã bốn năm. Ngày 8-10-1972, Chính phủ ta đưa ra bản dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Hai bên đã thỏa thuận hầu hết các nội dung trong văn kiện, ấn định ngày 20-10-1972 sẽ ký tắt tại Hà Nội và ngày 31-10-1972 sẽ ký chính thức tại Paris. Nhưng chính quyền Nixon cố tình dây dưa, muốn đợi qua cuộc bầu cử tổng thống, đồng thời chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới, nhằm giành lại thế mạnh cả về quân sự và ngoại giao, ép ta phải nhân nhượng theo những điều kiện có lợi cho Mỹ.

Đơn vị pháo cao xạ bảo vệ Thủ đô đã bắn rơi nhiều máy bay B-52 trong trận 12 ngày đêm.

Phân tích những âm mưu và hành động của đối phương, Bộ Chính trị nhận định, Mỹ sẽ đánh phá trở lại miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, có nhiều khả năng, chúng sẽ dùng máy bay B52 đánh ồ ạt Hà Nội, Hải Phòng… Nhiệm vụ của Quân chủng Phòng không – Không quân là tập trung mọi khả năng, nhắm trúng máy bay B52 mà tiêu diệt. Kế hoạch chuẩn bị đánh trả và phòng tránh máy bay B52 được quân và dân ta triển khai khẩn trương, tích cực, chủ động, kiên quyết; trong đó, lực lượng nòng cốt là quân chủng Phòng không – Không quân.

Thực tế là, không phải đến cuối năm 1972, mà ngay từ 7 năm trước đó – năm 1965, khi đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam, tiến hành “chiến tranh cục bộ” và bắt đầu sử dụng lực lượng ném bom chiến lược B52 trên chiến trường, trong một lần đến thăm bộ đội phòng không Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền, dù chúng có B57, B52 hay “bê” gì đi chăng nữa, ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ, chứ nhiều hơn nữa, ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”(1).

Để chuẩn bị đánh B52, trước tiên là phải tìm hiểu tính năng, kỹ thuật, đặc điểm và quy luật hoạt động của nó, trên cơ sở đó, tìm ra cách đánh phù hợp. Nhằm thực hiện đầy đủ mục đích trên, đồng thời, chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, tháng 5-1966, Quân chủng Phòng không – Không quân đã tổ chức cho trung đoàn tên lửa 238 cơ động vào Vĩnh Linh, nghiên cứu cách đánh B52. Ngày 17-9-1967, tại trận địa T5, Nông trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh), tiểu đoàn 84, trung đoàn 238 đã bắn rơi chiếc máy bay B52 đầu tiên. Từ đó, chúng ta luôn luôn duy trì một lực lượng ở chiến trường để đánh B52, với phương châm là vừa đánh địch, vừa nghiên cứu địch.

Cuối năm 1967, khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội”(2).

Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, đặc biệt là sự nhắc nhở thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đầu năm 1968, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân bắt tay vào xây dựng kế hoạch đánh trả một cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội trong vòng 5 năm tới. Có thể nói, đây là một bản kế hoạch rất độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Bởi lẽ, lúc bấy giờ, ngay cả phía Mỹ cũng chưa có chút manh nha gì về kế hoạch tiến công ồ ạt miền Bắc bằng máy bay B52. Lúc đầu, tuy còn sơ lược, nhưng qua chiến đấu thực tiễn và từng bước rút kinh nghiệm, bản kế hoạch được hoàn chỉnh dần. Đáng chú ý nhất là cuốn sách cẩm nang bìa đỏ mang tên ” Cách đánh B52 ” của bộ đội tên lửa. Tuy chỉ có 30 trang đánh máy, nhưng đó là sự tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm trong quá trình gần 7 năm chiến đấu với B52 và các thủ đoạn của không quân Mỹ, nhất là những kinh nghiệm và phương pháp mới nhất, được rút ra sau trận tập kích ngày 16-4-1972 bằng B52 của địch vào Hà Nội và Hải Phòng.

Những phương pháp đánh B52 trong cuốn cẩm nang đó đã được quân chủng phổ biến tỉ mỉ cho từng kíp chiến đấu. Bởi thế, sau này bước vào chiến dịch, bộ đội tên lửa của ta đã bình tĩnh, tự tin, bẻ gãy các đợt tiến công của không quân Mỹ. Thậm chí, có những đơn vị chưa từng chạm trán với máy bay B52, như trung đoàn tên lửa 257 và trung đoàn tên lửa 261, nhưng từ kinh nghiệm và phương cách trong cuốn sách “Cách đánh B52”, các trung đoàn đó đã bắn rơi 24 máy bay B52, trong đó có 16 chiếc rơi tại chỗ.

Như đã nêu ở trên, lúc đầu bản kế hoạch tuy còn sơ lược nhưng ít nhiều quân ta cũng đã dự đoán được các hướng tiến công chủ yếu của địch. Đối với Hà Nội, các nhà lập kế hoạch quân sự đã phán đoán máy bay B52 sẽ bay vào theo 5 hướng chủ yếu là từ Tây Bắc và Đông Bắc xuống, từ Tây Nam vào, từ Nam và Đông Nam lên. Thực tế sau này, trong 12 ngày đêm đánh phá Hà Nội, 70% số máy bay địch đều lợi dụng địa hình địa vật và từ hướng Tây Bắc đi xuống. Phán đoán chính xác hướng tiến công, nhất là hướng tiến công chủ yếu, đã giúp ta có biện pháp sử dụng các lực lượng hợp lý. Có như vậy, việc dàn thế trận mới đạt tới độ hiểm hóc để đánh thắng địch.

Đúng như ta phán đoán, ngày 17-12-1972, Tổng thống Mỹ Nixon đã ra lệnh mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52, mang tên Linebacker II vào Hà Nội và Hải Phòng.

Vào hồi 19 giờ 20 phút ngày 18-12-1972, ra đa của ta phát hiện máy bay B52 của địch bay vào vùng trời miền Bắc. Được chuẩn bị chu đáo từ trước đó, một lực lượng lớn đã tham gia chiến dịch với 6 trung đoàn tên lửa phòng không (SAM-2), 3 trung đoàn không quân tiêm kích, 4 trung đoàn và 8 tiểu đoàn pháo cao xạ, 356 đơn vị pháo, súng máy cao xạ, toàn mạng ra đa và các lực lượng phục vụ khác. Không quân ta đón đánh địch ở vòng ngoài. Bộ đội cao xạ và lưới lửa tầm thấp của dân quân tự vệ hất máy bay chiến thuật của địch lên cao. Ra đa, tên lửa, vừa khắc phục các loại nhiễu, vừa phát sóng, bắt mục tiêu B52 và phóng đạn tiêu diệt.

Xác B52 rơi ở đường Hoàng Hoa Thám – Hà Nội

Với thái độ ngạo mạn và coi thường, chính quyền Mỹ cho rằng, cùng với tàu ngầm nguyên tử, tên lửa vượt đại châu mang đầu đạn hạt nhân và những loại vũ khí chiến lược như siêu pháo đài bay B52, có thể ép được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định Paris theo những điều khoản có lợi cho Mỹ. Nhưng trái lại, chỉ sau ba ngày Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược, đã có tới 12 máy bay B52 bị bắn rơi. Và “nếu B52 cứ rơi với tốc độ này thì sau hai tuần lễ sẽ không còn máy bay ở Đông Nam Á để chiến đấu nữa”(3). Điều dự kiến đó không phải là thiếu căn cứ. Bởi trước đó bảy tháng, từ tháng 5-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các cán bộ tham mưu tác chiến của Quân chủng Phòng không – Không quân đã đặt vấn đề: “Tỷ lệ B52 bị bắn rơi ở mức độ nào thì Nhà Trắng rung chuyển? Mức độ nào thì Mỹ không chịu nổi, phải thua?”. Sau mấy tuần lễ, câu trả lời đã được đưa ra: N 1: Tỷ lệ chịu đựng được là 1 – 2% (trên tổng số B52 tham chiến của Mỹ); N 2: Tỷ lệ Nhà Trắng rung chuyển là 6 – 7%; N 3: Tỷ lệ buộc Mỹ phải thua cuộc là trên 10%.

Quân chủng Phòng không – Không quân loại trừ N 1, quyết tâm đạt N 2 và vươn tới N 3. Khôngnhững thế, trên thực tế chiến trường, bộ đội ta còn thực hiện vượt mức chỉ tiêu N 3. Trong 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, tỷ lệ B52 bị bắn rơi là 17,6% (34/147 chiếc, trong đó Hà Nội góp công 23 chiếc).

Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn nhất bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng đã hoàn toàn bị đánh bại. Trong 12 ngày đêm, địch đã xuất kích 663 lần/chiếc máy bay chiến lược B52 và hơn 3.800 lần/chiếc máy bay chiến thuật các loại.

Đây là lần đầu tiên, quân và dân ta tổ chức và thực hành thắng lợi một chiến dịch phòng không – một loại hình chiến dịch của chiến tranh hiện đại – đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không của địch, một chiến dịch phòng không độc nhất trong 30 năm chiến tranh giải phóng. Ta đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay F111, giáng đòn quyết định vào cố gắng cuối cùng – đồng thời là cố gắng cao nhất của Mỹ trong năm 1972, và cũng là trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược, buộc chính quyền Nixon phải ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Với lý do thất bại nặng nề như vậy, đúng 7 giờ ngày 30-12-1972, Chính phủ Hoa Kỳ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị gặp đại biểu Chính phủ ta tại Paris, bàn việc ký kết Hiệp định.

BẰNG TRÍ TUỆ QUÂN SỰ THÔNG MINH, SÁNG TẠO, CHIẾN ĐẤU GIÀNH THẮNG LỢI TO LỚN

Từ chỗ dám đánh, biết đánh rồi biết thắng, trong 12 ngày đêm chiến đấu chống cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ, quân và dân ta đã giành được một thắng lợi to lớn chưa từng thấy.

Với yêu cầu tập trung, bắn rơi tại chỗ nhiều B52, thì vấn đề cơ bản nhất là phải tách cho được B52 ra khỏi nền nhiễu và ra khỏi khối liên kết với các loại máy bay chiến thuật làm nhiệm vụ hộ tống, gây nhiễu trong đội hình chiến đấu để nâng cao hiệu quả tiêu diệt. Một công việc thật không dễ dàng chút nào nhưng đây lại là vấn đề sáng tạo nhất trong cách đánh của ta.

Việc đưa B52 ra khỏi nền nhiễu là một vấn đề rất khó khăn, nhưng cuối cùng, mọi biện pháp kỹ thuật hiện đại của đối phương đều bị các chiến sĩ phòng không phát hiện trên màn hiện sóng. Trong việc vạch nhiễu, tìm thù, đâu là máy bay B52, đâu là máy bay cường kích, tiêm kích, hay tiêm kích làm giả B52, đều được phơi trần trước cặp mắt tinh tường của bộ đội ra đa và bộ đội tên lửa.

Qua quá trình nghiên cứu, nhóm cán bộ tiểu đoàn trinh sát nhiễu của Quân chủng Phòng không – Không quân lại phát hiện được một hiện tượng khá đặc biệt là trong số ra đa quân ta đang sử dụng, có một loại mà máy bay B52 không phát hiện được. Trên cơ sở đó, cuối năm 1971, tổ cán bộ nghiên cứu đã đề xuất một công trình cải tiến kỹ thuật: dùng loại ra đa không bị máy bay B52 gây nhiễu, ghép với đài điều khiển, phục vụ bộ đội tên lửa đánh B52. Bộ khí tài mới này mang ký hiệu là KX. Tháng 1-1972, bộ khí tài đưa ra ứng dụng, đã thu được kết quả tốt và được đánh giá là đủ khả năng chỉ ra chính xác mục tiêu, giúp đài điều khiển tên lửa phát hiện máy bay B52 để tiêu diệt.

Vì vậy, trong 12 ngày đêm, cùng với bộ khí tài KX, phối hợp với các lực lượng phòng không ba thứ quân, bộ đội tên lửa đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi nhiều máy bay B52. Đêm 22-12-1972, trung đoàn tên lửa 257 đã phóng 4 quả đạn, diệt 2 chiếc B52. Trong 7 ngày đêm (từ 18 đến 24-12-1972), với chỉ dẫn mục tiêu của bộ khí tài KX, tiểu đoàn 57, trung đoàn 261 cũng đã bắn rơi 4 máy bay B52.

Trong cuộc tập kích đường không chiến lược tháng 12-1972, để bảo đảm an toàn cho B52 vào đánh phá, các nhà quân sự Mỹ đã sử dụng một lực lượng hùng hậu, gồm các loại máy bay tiêm kích, bay phía trước, phía sau, bay hai bên sườn, làm nhiệm vụ hộ tống (chặn đánh gần); các máy bay tiêm kích làm nhiệm vụ thả nhiễu và chặn đánh xa; máy bay chế áp hệ thống phòng không ở mặt đất; máy bay tạo giả B52; các máy bay tác chiến điện tử phát nhiễu, tạo một vùng nhiễu rộng, ngụy trang cho lực lượng máy bay vào đánh phá.

Thực chất của cách tổ chức đội hình này là sự liên kết chặt chẽ chức năng và phát huy tối đa tính ưu việt của từng loại máy bay, với những trang bị kỹ thuật hiện đại, tạo thành một cơ cấu vững chắc, đảm bảo an toàn cho B52 trong quá trình làm nhiệm vụ rải thảm bom hủy diệt mục tiêu. Như vậy, sức mạnh của B52 chỉ có thể phát huy tác dụng khi duy trì được khối liên kết chặt chẽ giữa B52 với các loại máy bay khác trong đội hình chiến dấn. Nếu sự liên kết đó bị phá vỡ, B52 khó lọt qua được lưới lửa phòng không của ta (đặc biệt là tên lửa và máy bay MIG). Đây là điểm yếu chí mạng của phương pháp liên kết chức năng và cũng là mắt xích quan trọng nhất.

Quân đội ta xác định, muốn giành được thắng lợi cho chiến dịch, vấn đề đặt ra là phải chuyển hóa lực lượng, tập trung mọi nỗ lực, vận dụng cách đánh sáng tạo, linh hoạt, liên tục phá hỏng sự liên kết giữa các thành tố trong đội hình bay của địch, làm bộc lộ lực lượng, tách B52 ra để tiêu diệt. Cùng với việc tổ chức lực lượng đánh trả, phá hỏng sự liên kết của đối phương từ xa, bộ đội tên lửa thực hiện đánh tập trung, đánh hiệp đồng liên tiếp trên đường bay của chúng, làm rối loạn đội hình, tạo điều kiện thuận lợi để bắn trúng B52.

Để giữ vững và phát huy sức mạnh đánh địch trong quá trình chiến dịch, việc giữ gìn lực lượng ta cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì sức mạnh của ta cũng dựa trên cơ sởxây dựng thế trận và sự liên kết chức năng của các lực lượng, các binh chủng. Lực lượng nào bị sứt mẻ cũng đều ảnh hưởng đến sức mạnh của cả chiến dịch. Vì vậy, ngay sau khi các sân bay của ta bị đánh hỏng, quân, dân ta đã kịp thời khôi phục lại, tạo điều kiện để không quân xuất kích chiến đấu cùng vớicác lực lượng khác. Đặc biệt, việc huy động sức mạnh tổng hợp của thế trận phòng không nhân dân đối phó với những thủ đoạn nham hiểm của địch tại các địa bàn trọng yếu ở trong và các vùng lân cận Hà Nội, Hải Phòng đã góp sức cho thắng lợi của cuộc chiến đấu 12 ngày đêm này.

Sau những đêm đầu bị giáng trả quyết liệt, nhiều B52 bị bắn rơi, địch phát hiện ra đối thủ nguy hiểm nhất chính là tên lửa và tìm mọi cách tập trung đánh phá. Để tiêu diệt lực lượng nòng cốt của cuộc tập kích, ta cũng chủ trương chỉ tập trung tên lửa đánh B52. Do đó, việc bảo vệ an toàn cho tên lửa là rất bức thiết. Một số đơn vị pháo cao xạ, từ Thanh Hóa, Nam Định được điều về bảo vệ tên lửa ởHà Nội. Mặt khác, ta cũng tập trung không quân, pháo cao xạ tiêu diệt máy bay cường kích để bảo vệ tên lửa. Nhờ cách tổ chức lực lượng, bố trí thế trận hợp lý, khoa học, ta đã duy trì được sức mạnh đánh địch liên tục, rộng khắp trên những địa bàn trọng điểm và đã giành được chiến thắng lớn, đặc biệt là trong các đêm 20 và 26-12-1972.

Chiến thắng của quân và dân ta đối với cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, tháng 12-1972, có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Chiến thắng oanh liệt của trận quyết chiến chiến lược trên bầu trời này đã góp phần kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược lâu dài, hao người tốn của của một đạo quân viễn chinh. Âm hưởng của nó đã vượt ra khỏi phạm vi của một chiến dịch, góp phần quyết định “đánh cho Mỹ cút” sau khi Hiệp định Paris được ký kết, tạo tiền đề “đánh cho ngụy nhào” vào mùa Xuân năm 1975. ” Điện Biên Phủ trên không ” là sự kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh lịch sử; xứng đáng là một đỉnh cao chiến thắng của văn hóa quân sự Việt Nam hiện đại./.

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, t.11, tr.467.

(2) Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh Biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1990, tr. 203.

(3) Tạp chí Air Force, số 7-1977.

DƯƠNG XUÂN ĐỐNG Nhà nghiên cứu văn hóa quân sự

Chiến Thắng Điện Biên Phủ 1954

Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến – Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Năm 1954, trên đại ngàn Tây Bắc đất nước, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạp bằng mọi khó khăn thử thách, đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ, dựng lên mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử dân tộc, đồng thời làm “chấn động địa cầu”, tác động mạnh đến phong trào đầu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nhân kỷ niệm 66 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2020), xin trân trọng giới thiệu bài viết “Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 – Sự kiện mang giá trị và tầm vóc thời đại” của Đại tá Trần Tiến Hoạt, nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

Trận quyết chiến chiến lược

Đến năm 1953, sau 8 năm trở lại xâm lược Đông Dương, dù đã huy động tiềm lực kinh tế, quân sự đến mức cao nhưng thực dân Pháp vẫn không đạt được mục đích cơ bản đề ra là tiêu diệt chính phủ cách mạng và lực lượng kháng chiến, thiết lập lại nền cai trị trên toàn Đông Dương như trước năm 1945. Trái lại, chúng phải chịu những tổn thất nặng nề: bị thiệt hại 390.000 quân, vùng chiếm đóng thu hẹp, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng ngày càng sâu sắc…

Mặt khác, những khó khăn về kinh tế, tài chính và phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong nước ngày càng dâng cao đẩy chính phủ Pháp rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị mới. Lợi dụng tình thế này, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào Đông Dương, tích cực viện trợ cho Pháp kéo dài và mở rộng cuộc chiến nhằm phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng.

Tháng 5/1953, chính phủ Pháp cử tướng Nava – người được đánh giá là “một nhà chiến lược văn võ kiêm toàn” sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương với hy vọng sớm giành thắng lợi quân sự quyết định, tìm “lối thoát danh dự” dứt điểm cuộc chiến tranh. Sau một thời gian tìm hiểu tình hình chiến trường, tháng 7/1953, tướng Nava đề ra kế hoạch quân sự mới ở Đông Dương (còn gọi Kế hoạch Nava), gồm hai bước.

Bước 1 (Thu Đông năm 1953 và Xuân năm 1954): giữ thế phòng ngự chiến lược ở chiến trường miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực đối phương; tiến công chiến lược ở chiến trường phía nam, đánh chiếm các căn cứ kháng chiến, trước hết là vùng tự do Liên khu 5 và Khu 9 của cách mạng; đồng thời ra sức bắt lính mở rộng ngụy quân, tập trung xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh.

Bước 2 (từ Thu Đông năm 1954): dồn lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện các đòn tiến công chiến lược, tiêu diệt quân chủ lực đối phương để giành thắng lợi quyết định, buộc chính phủ kháng chiến phải đầu hàng, hoặc chấp nhận đàm phán kết thúc chiến tranh theo những điều kiện do Pháp đặt ra.

Cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đánh giá kế hoạch Nava là “hoàn hảo, phù hợp”, sẽ mang đến thắng lợi trong vòng 18 tháng!

Thực hiện kế hoạch quân sự mới đề ra, thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân đánh phá, càn quét bình định, ra sức bắt lính; đồng thời đưa thêm nhiều đơn vị quân viễn chinh vào Đông Dương. Chỉ sau một thời gian ngắn, địch đã củng cố, xây dựng được 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, trong đó tập trung 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ.

Về phía ta, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn, đề ra chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân 1953 – 1954: Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch tương đối yếu, có nhiều sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Phương châm, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược là: tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.

Chấp hành chủ trương chiến lược đã đề ra, quân dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ cùng với quân dân hai nước bạn Lào và Campuchia mở các cuộc tiến công trên khắp chiến trường Đông Dương buộc Pháp phải phân tán lực lượng đối phó. Khối chủ lực cơ động của địch từ chỗ tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Bắc Bộ, chỉ sau một thời gian ngắn, chính thức “bị xé nát” thành 5 mảnh, đứng chôn chân trên 5 khu vực (Đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc, Trung Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào) mà hầu như không thể hỗ trợ được cho nhau.

Phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, ở chiến trường sau lực địch, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích nhằm bảo vệ căn cứ kháng chiến, chia cắt giao thông, tiến công diệt thêm đồn bốt, căn cứ hậu cần, uy hiếp hệ thống phòng tuyến bên ngoài của địch… Sự phối hợp chiến đấu nhịp nhàng, rộng khắp đã đẩy quân Pháp lún sâu vào thế bị động. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.

Tại mặt trận Tây Bắc, từ tháng 11/1953, trước sự tiến công của quân ta, bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương quyết định điều quân xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Trong toan tính của tướng Nava, Điện Biên Phủ giữ vị trí chiến lược quan trọng nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào. Mặt khác, nơi đây là thung lũng phì nhiêu (dài 18 km, rộng 6 – 8 km), giàu có nhất vùng Tây Bắc. Không gian và địa thế đó cho phép xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm thu hút và đánh bại chủ lực đối phương.

Đến đầu tháng 3/1954, quân địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên đến 16.200 tên, gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân thuộc loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá Điện Biên Phủ là “pháo đài không thể công phá”, công khai thách thức đối phương tiến công.

Về phía ta, sau khi phân tích kỹ tình hình mọi mặt, nhất là so sánh tương quan lực lượng địch – ta, Trung ương Đảng và Bộ chỉ huy tối cao đã quyết tâm mở chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ – đòn quyết chiến chiến lược nhằm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao trọng trách Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân, gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh – pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và 27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp cùng bộ đội công binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau một thời gian ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa chữa. Công tác chuẩn bị các mặt trên vượt ra ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.

Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch. Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng, chí không mòn”, chiều ngày 7/5/1954, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống tướng chỉ huy De Castries, kết thúc thắng lợi trận quyết chiến chiến lược.

Ý nghĩa lịch sử trọng đại

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 của quân dân Việt Nam đã đập tan những cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 9 năm (1945 – 1954). Đồng thời, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, mở ra bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia.

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới; giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Nhà sử học Pháp Jules Roy sau này đã thừa nhận, xét trên phạm vi thế giới “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng”.

Cũng từ đây, “tiếng sấm Điện Biên Phủ” có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi, châu Mỹ la-tinh; đồng thời góp phần làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin thời đại ngày nay: Một dân tộc bị áp bức, nhưng nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh bại những đội quân xâm lược hung bạo. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”.

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học – kinh nghiệm rất quý báu: giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước để giành thắng lợi quyết định; thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, không ngừng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn sàng thực hiện tốt nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, những trận quyết chiến; không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công – nông làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Những bài học – kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Chiến Dịch Lịch Sử Điện Biên Phủ

Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào – Việt, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng. Đối với đế quốc Pháp – Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á.

Bộ đội ta đánh chiếm hầm Đờ Cát. Ảnh tư liệu

Thấy rõ vị trí quan trọng đó của Điện Biên Phủ, ngày 20-11-1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.

Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và phi đội không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200 tên. Chúng bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 40 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm, mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. Tám cụm cứ điểm họp thành ba phân khu, 80% lực lượng không quân ở Đông Dương và nhiều loại vũ khí hiện đại khác của Pháp và Mỹ đã được đưa vào tác chiến ở Điện Biên Phủ.

Với số quân đông, hoả lực mạnh, công sự vững chắc, các tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là “một tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm”. Xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng thực hiện ý đồ thu hút chủ lực ta lên đó để tiêu diệt, rồi chuyển sang tiến công ta.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.

Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy trưởng mặt trận.

Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, nhân dân ta đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch.

Đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.

Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn địch và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh, giáng một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch. Trong đợt tiến công mở đầu này, Phan Đình Giót đã nêu gương chiến đấu dũng cảm, lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo điều kiện cho toàn đơn vị tiến lên tiêu diệt địch.

Ngày 16-3-1954, địch cho 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Ngày 30-3-1954, ta mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân khu trung tâm.

Đánh vào khu đông, ta tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.

Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 100 máy bay oanh tạc chiến đấu, 50 máy bay vận tải và cho Pháp mượn 29 máy bay C119 có cả người lái; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương”.

Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Bộ đội ta đã có những cố gắng phi thường, chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công rực rỡ. Tuy vậy, do cuộc chiến đấu liên tục, kéo dài và ác liệt, khó khăn về cung cấp tiếp tế cũng tăng thêm nên đã phát sinh tư tưởng tiêu cực, ngại thương vong, mệt mỏi.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, một đợt sinh hoạt chính trị được tiến hành sâu rộng từ các cấp uỷ đến chi bộ, từ cán bộ đến chiến sĩ trong tất cả các đơn vị trên toàn mặt trận. Tư tưởng hữu khuynh tiêu cực bị phê phán sâu sắc tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng được phát huy mạnh mẽ.

Ngày 1-5-1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta lần lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía đông và phía tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của địch.

Ngày 4-5-1954, địch thả tiểu đoàn dù dự bị cuối cùng xuống Điện Biên Phủ.

Ngày 7-5-1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, gồm 21 tiểu đoàn, trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh cơ động chiến lược, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 353 sĩ quan từ thiếu uý đến thiếu tá, 16 trung tá và đại tá, 1 thiếu tướng. Tổng cộng, số lượng địch bị tiêu diệt và bắt sống tại Điện Biên Phủ bằng 4% quân số địch ở Đông Dương, 20% lính Âu – Phi. Ta hy sinh 4.200 đồng chí, mất tích 792 đồng chí, bị thương 9.118 đồng chí.

Ta thu được 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 20 tấn thuốc quân y, 40 tấn đồ hộp, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các loại.

Tại các chiến trường phối hợp trong toàn quốc, ta tiêu diệt 126.070 tên địch.

Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng của nhân dân ta. Điện Biên Phủ ghi một mốc son chói lọi vào lịch sử dân tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt Nam.

Trong con mắt của các học giả nước ngoài, “Điện Biên Phủ là trận Vanmy của các dân tộc da màu”, “trên thế giới, trận Oatéclô cũng ít có tiếng vang hơn. Điện Biên Phủ thất thủ đã gây ra những nỗi kinh hoàng ghê gớm, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của nền cộng hoà. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn đang âm vang”.

– Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.5, tr.403.

– Chiến thắng Điện Biên Phủ – mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.847.

– Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, chúng tôi tr.390-440.

– Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.143-144.

– Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên – Bộ Tư lệnh Quân khu 2– Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến thắng Điện Biên Phủ – mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.847.

– Jules Rây: Tiếng sấm Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr.284.