Top 5 # Skkn Giải Toán Có Lời Văn Lớp 2 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Caffebenevietnam.com

Skkn Giải Toán Có Lời Văn Lớp 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMĐề tài

HƯỚNG DẪN HỌC SINH THỰC HIỆN TỐT CÁCH GIẢI BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN – LỚP 5( Dạng toán : ” Toán chuyển động đều ” )

I /- ĐẶT VẤN ĐỀ :Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn, đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp cho học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực.Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn: Nó phát triển tư duy, trí tuệ, có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính suy luận, tính khoa học toàn diện, chính xác, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt, góp phần giáo dục tính nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn.Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán, vấn đề đặt ra cho người thầy là làm thế nào để giờ dạy – học toán có hiệu quả cao, học sinh phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Theo tôi, các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí, mục đích và nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của bài học môn toán. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến thức, cách giải toán đơn thuần mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả.Hiện nay, giáo dục tiểu học đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, làm cho hoạt động dạy học trên lớp “nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả”. Để đạt được yêu cầu đó, giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học để vừa nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận thức của học sinh, để đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói riêng.Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng . Thông qua việc giải toán, học sinh tiểu học thấy được nhiều khái niệm trong toán học như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học . . . đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán sẽ rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới, có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm và độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt được và khắc phục những mặt thiếu sót.Chính vì vậy, tôi chọn đề tài ” Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt cách giải bài toán có lời văn lớp 5 ( Dạng: Toán chuyển động đều ) ” với mong muốn đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học toán và giúp học sinh lớp 5 biết cách giải bài toán có lời văn đạt hiệu quả cao hơn. Nhưng trong thực tế giảng dạy môn Toán – giải bài toán có lời văn, bản thân tôi cũng gặp nhiều khó khăn như sau :

II / – KHÓ KHĂN: Đa số học sinh xem môn toán là môn học khó khăn, dễ chán. Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều : một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu bài toán, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán.Từ những khó khăn trên, để giúp học sinh có kĩ năng giải bài toán có lời văn ở lớp 5, với dạng bài toán ” chuyển động đều ” đạt hiệu quả, bản thân tôi đã thực hiện và tổ chức các hoạt động như sau:

III / – GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC:Giải toán đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ năng tính vì bài

Skkn Giải Toán Có Lời Văn Lớp 1

SÁNG KIẾN-KINH NGHIỆMHƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP MỘT GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂNA. ĐẶT VẤN ĐỀ.I. Lý do chọn đề tài.Môn Toán lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học, rồi mai đây các em lớn lên trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống và sản xuất, trên tay có máy tính xách tay, nhưng không bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết 1,2,3 học các phép tính cộng,trừ các em không thể quên được vì đó là kỉ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa những con số, những phép tính đơn giản ấy cần thiết cho suốt cuộc đời của các em.Đó cũng là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên nói chung và giáo viên lớp 1 nói riêng. Người thầy giáo từ khi chuẩn bị cho tiết dạy đầu tiên đến khi nghỉ hưu không lúc nào dứt nổi trăn trở về những điều mình dạy và nhất là môn Toán lớp 1 là một bộ phận của chương trình môn Toán ở tiểu học. Chương trình nó kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy Toán lớp 1, nên nó có vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu trong mỗi cấp học.Dạy học môn Toán ở lớp 1 nhằm giúp học sinh:a. Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, về độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20, về tuần lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số hình học (Đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về bài toán có lời văn.b. Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh các số trong phạm vi 100; cộng trừ và không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước lượng độ dài đoạn thẳng( với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20 cm). Nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ điểm, đoạn thẳng).Giải một số dạng bài toán đơn về cộng trừ bước đầu biết biểu đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành, tập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh.c. Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học toán.Là một người giáo viên trực tiếp dạy lớp 1 và đặc biệt là dạy môn toán, Thực hiện chương trình đổi mới giáo dục toán học lớp 1 nói riêng ở tiểu học nói chung. Tôi rất trăn trở và suy nghĩ nhiều để học sinh làm sao làm được các phép tính cộng, trừ mà việc giải toán có lời văn thì càng khó hơn đối với học sinh lớp 1 nên tôi đi sâu về nghiên cứu dạy ” giải toán có lời văn” ở lớp 1.II. Mục đích nghiên cứu:Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn

Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn.Đọc hiểu – phân tích – tóm tắt bài toán.Giải toán đơn về thêm (bớt ) bằng một phép tính cộng ( trừ).Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số.Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau.

III.Đối tượng nghiên cứu, Là những bài tập thuộc mạch kiến thức “giải toán có lời văn” trong chương trình lớp 1 ở Tiểu học. IV. Phạm vi nghiên cứuTrong chương trình toán 1 Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 Từ tiết 84 cho đến tiết 112. V. Nhiệm vụ nghiên cứu. Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức trong chương trình môn toán lớp 1( số và phép tính, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn). Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn nhằm giúp HS: – Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn. – Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính trừ. – Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt đúng. VI . Phương pháp nghiên cứu. Để nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này tôi căn cứ vào các tài liệu chuẩn như: Chuẩn kiến thức kĩ năng toán 1Phương pháp dạy các môn học

Skkn Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI: “GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 1”

trẻ đi vào thế giới diệu kì của Toán học, rồi mai đây các em lớn lên sẽ trở thành một bác sĩ giỏi, một nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống, sản xuất… được sử dụng cộng nghệ hiện đại như máy tính xách tay. Nhưng các em không bao giờ quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết 1, 2, 3… học các bài toán đầu tiên, các em không thể quên vì đó là những kỉ niệm đẹp nhất của đời người và hơn thế nữa là những con số, những phép tính đơn giản ấy cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Là một giáo viên dạy lớp 1, tự bản thân tôi nhận thấy môn Toán là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là học sinh lớp 1 lại càng quan trọng hơn. Môn Toán cung cấp những kiến thức cơ bản về số, những phép tính trong đại lượng và khái niệm cơ bản về hình học, bên cạnh đó nó còn góp phần vào phát triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích cho các em trí tưởng tượng, óc khám phá, hình thành nhân cách cho các em. Thấy được tầm quan trọng của môn Toán nên tôi đã đi sâu tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu ra những biện pháp mới để giảng dạy môn Toán thật tốt giúp học sinh chủ động tiếp thu môn Toán một cách nhẹ nhàng thông qua hoạt động học tập. Để “học mà chơi – chơi mà học”, đó cũng là nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học nói chung và dạy học môn Toán nói riêng. Mong các em trở thành những con người có ích giúp cho “non sông Việt Nam trở nên tươi sáng hơn, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quộc năm châu” như trích thư của Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đã gửi lại. II. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 1 đặc biệt là học sinh lớp 1A3 – trường Tiểu học Ba Trại. III. Mục đích nghiên cứu:

Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán để tìm ra phương pháp giúp giáo viên dạy môn Toán cho học sinh lớp 1 được tốt hơn. Cụ thể: + Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của một bài toán có lời văn lớp 1. + Đọc hiểu – phân tích – tóm tắt bài toán. + Giải toán đơn về thêm (bớt) bằng một phép tính cộng (trừ). + Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số. + Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau. IV. Phạm vi nghiên cứu: –

Sách giáo khoa Toán 1.

Sách giáo viên Toán 1.

Chuẩn kiến thức kĩ năng Toán lớp 1.

Vở bài tập Toán của học sinh khối 1 và học sinh lớp 1A3.

Các phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học.

Tập thể giáo viên khối 1 trường Tiểu học Ba Trại.

V. Thời gian nghiên cứu: – Từ tháng 10 – 2012 đến 4 – 2013. VI. Phương pháp nghiên cứu: – Phương pháp điều tra. – Phương pháp trắc nghiệm.

– Phương pháp trực quan. – Phương pháp đàm thoại, gợi mở. – Phương pháp luyện tập. PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG. Chương I: Cơ sở lý luận. I. Vị trí và yêu cầu của môn Toán ở Tiểu học. 1. Vị trí của dạy học môn Toán. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vai trò quyết định vì: – Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, rất cần thiết cho người lao động, để học tiếp các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp môn Toán ở Trung học. – Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó học sinh co phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh, biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. – Môn Toán góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ. Suy luận, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo. Góp phần quan trọng vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết, quan trọng của người lao động. 2. Nhiệm vụ của dạy học môn Toán. a. Nhiệm vụ chung: Môn Toán ở Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh:

– Hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, đơn giản, có nhiều ứng dụng trong đời sống về số học các số tự nhiên, các số thập phân bao gồm cả cách đọc, cách viết, so sánh các số tự nhiên…. – Có những đóng góp ban đầu, thiết thực về các đại lượng cơ bản như độ dài, khối lượng thời gian, …. Biết sử dụng các dụng cụ để thực hành đo lường, biết ước lượng các số đo đơn giản. – Biết nhận dạng và bước đầu biết phân biệt một số hình học thường gặp. – Biết cách giải và trình bày giải với những bài toán có lời văn. Nắm chắc, thực hiện đúng quy trình bài toán. – Thông qua những hoạt động học tập toán để phát triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng nhất như: so sánh, phân tích, tổng hợp… – Hình thành phong cách học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập, sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin. b. Nhiệm vụ cụ thể: – Kiến thức: Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, phép cộng, phép trừ không nhớ trong phạm vi 100, độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20cm, về tuần lễ và ngày trong tuần, đọc giờ đúng trên đồng hồ, một số hình học, bài toán có lời văn…. – Kĩ năng: Học sinh được rèn luyện các kĩ năng thực hành: đọc, đếm, so sánh, ghi lại càc đọc các số, giá trị vị trí các chữ số, cấu tạo thập phận của số cps hai chữ số trong phạm vi 100. Thực hành nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ đoạn thẳng có độ dài đến 10cm, giải một số bài toán đơn về cộng, trừ, bước đầu biết diễn đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và thực hành.

Tập dượt, so sánh, phân tích, tổng hợp, trìu tượng hoá, khát quát hoá trong phạm vi của nội dung chương trình toán lớp 1. 3. Những yêu cầu cơ bản của việc dạy học môn Toán ở lớp 1. a. Yêu cầu: * Kiến thức, kĩ năng: – Biết đọc, viết, so sánh các số tự nhiên từ 0 đến 10. – Thuộc các bảng tính đã học. Biết thực hiên các phép tính cộng, trừ không nhớ trong phạm vi 100. Biết tên gọi, kí hiệu đơn vị đo độ dài và biết dùng dụng cụ đo độ dài, biết xem ngày tháng trong một số trường hợp đơn giản. Nhận dạng và gọi đúng tên, dùng thước để vẽ các hình đã học. Giải và trình bày bài toán có lời văn. b. Trình độ tối thiểu cần đạt: – Học sinh phải đọc , viết, so sánh được các số trong phạm vi 100. – Thực hiện phép tính: nhanh, chính xác, nắm chắc thứ tự khi thực hiện phép tính các nhiều dấu phép tính cộng, trừ. – Tìm thành phần chưa biết của phép tính ở mức độ đơn giản (dạng điền số thích hợp vào ô trống). – Đọc, biết vẽ, đo đoạn thẳng có độ dài cho trước (cm). Xem lịch, đồng hồ. – Yếu tố hình học: Nhận biết, gọi đúng tên điểm, đoạn thẳng các hình đã học. – Giải và trình bày bài giải các bài toán có lời văn không quá 3 bước với cấu trúc đơn giản. II. Nội dung chương trình dạy Toán lớp 1.

Môn Toán và môn Học vần (kì II chuyển sang Tập đọc) chiếm 3 phần thời gian, số tiết so với thời gian môn học khác. Mỗi tiết 35-40 phút được chia làm 4 giai đoạn. – Giai đoạn 1: Từ tuần 1 đến tuần 6. Học sinh được học các số đến 10, hình vuông, hình tròn, hình tam giác. – Giai đoạn 2: Từ tuần 7 đến tuần 17. Học sinh học về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10. Giai đoạn này lần đầu tiên học sinh được làm quen với dạng toán: nhìn hình vẽ, nêu thành bài toán ở mức độ đơn giản rồi nêu phép tính. – Giai đoạn 3: Từ tuần 18 đến hết tuần 28. Giai đoạn này học sinh học về các số trong phạm vi 100, đo độ dài, giải bài toán. Đặc biệt là tiết 84 tuần 21 học sinh học về giải toán có lời văn. – Giai đoạn 4: Từ tuần 29 đến hết tuần 35. Học sinh học về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 100, đo thời gian. Giai đoạn này học sinh thường xuyên được rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn. 1.Nguyên tắc dạy học Toán. -Kết hợp dạy toán với giáo dục: Thông qua quá trình hình thành kiến thức, rèn luyện kĩ năng môn Toán mà rèn luyện con người góp phần thực hiện mục tiêu môn Toán ở Tiểu học. – Phương pháp học tập chủ động, tích cực, phương pháp suy nghĩ có căn cứ, có kế hoạch, có ưu tiên. – Các đặc tính cần thiết của người lao động mới ( cần cù, kiên trì, vượt khó khăn, cẩn thận, yêu thích chân lí, cái hay, cái đẹp, trung thực, . . . .

– Đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức: Dạy học Toán phải chính xác, phải giúp học sinh thấy nguồn gốc thực tế của kiến thức, mối quan hệ giữa các kiến thức, tính thiết thực của kiến thức. – Đảm bảo tính trực quan, tính tích cực, tự giác: Kiến thức Toán trừu tượng, khái quát. Muốn học sinh hiểu, dễ học phải đảm bảo tính trực quan. Sử dụng trực quan đúng mức sẽ góp phần phát triển tư duy trừu tượng học sinh. – Đảm bảo tính hệ thống và tính vững chắc: Môn Toán là một trong những môn có tính hệ thống chặt chẽ, muốn vậy phải: Xác định rõ vị trí của từng bài học ở từng chương, từng lớp trong toàn bộ chương trình. Th  ường xuyên quan tâm đến hệ thống kiến thức từng bài học trong từng giai đoạn học.  Sự vững chắc của kiến thức và kĩ năng môn Toán đòi hổi phải củng cố, ôn tập thực hành thường xuyên, tập trung vào những nội dung cơ bản nhất của chương trình. – Đảm bảo sự cân đối giữa học và hành, kết hợp dạy học với tính ứng dụng trong đời sống: cần coi trọng phương pháp thực hành, coi trọng rèn luyện các kĩ năng thực hành, hết sức hạn chế các phương pháp làm cho học sinh ít hoạt động. Vì vậy cần chọn các phương pháp để góp phần giúp học sinh nhận biết được nguồn gốc thực tế và khả năng vận dụng trong đời sống hàng ngày của các nội dung trừu tượng của môn Toán. 2. Phương pháp dạy học Toán.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC PHÂN MÔN TOÁN LỚP 1 I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC TOÁN Ở CÁC TRƯỜNG TIÊU HỌC. – Trong những năm trở lại đây, việc dạy học Toán cho học sinh Tiểu học được Bộ Giáo Dục, Sở Giáo Dục, Phòng Giáo Dục, đặc biệt là Ban giám hiệu, các thầy cô và các

bậc phụ huynh rất quan tâm. Chính vì thế, mục tiêu rèn Toán cho học sinh lớp 1 cũng như lớp 2 được đặt lên hàng đầu. – Năm học 2012-2013 là năm trọng tâm của việc thực hiện chuyên đề đối với các phân môn của lớp 1, đặc biệt là môn Toán. Chuyên đề Toán đựơc sự chỉ đạo quan tâm sắt xao của Sở Giáo Dục do học sinh yếu môn Toán từ những năm học trước vẫn còn chiếm tỉ lệ cao trên toàn quốc cũng như trong địa bàn thành phố Hà Nội.Do vậy chuyên đề Toán năm nay được thực hiện 2 lần trong năm lần lượt theo trình tự các cấp: + Chuyên đề lần thứ nhất diến ra vào tháng 9: ( Tiết 19: Bài số 9) tại Sở Giáo Dục Hà Nội, sau đó lại được triển khai lại một lần nữa tại PGD các quận, huyện. Lần thứ 3 diễn ra tại các trường do những giáo viên đi tiếp thu chuyên đề về truyền thụ lại. + Tương tự như vậy chuyên thứ hai về môn Toán lại được triển khai vào tháng 4 năm học 2012- 2013.(Tiết 85: Giải toán có lời văn). + Ngoài ra được sự hướng dẫn của Bộ Giáo Dục các nhà trường đã thực hiện rất tốt việc” Đổi mới đánh giá trong dạy học Toán lớp 1″. Toàn bộ học sinh khối lớp 1 năm học 2012- 2013 trở về sau phải được học 10 buổi trên tuần. – Cụ thể trong các nhà trường còn có sự quan tâm đặc biệt đối với giáo viên và học sinh lớp 1 như: + Mỗi giáo viên và học sinh được trang bị 1 bộ thực hành học Toán. + Giáo viên được tham dự đầy đủ những chuyên đề về Toán và cuộc thi giáo viên dạy giỏi và thao giảng ít nhất 2 lần trên năm tại cấp cơ sở để học hỏi và trau dồi kiến thức, trau dồi kinh nghiệm. Thống nhất phương pháp dạy đồng bộ trong khối xây dựng tiết dạy tốt góp phần nâng cao chất lượng giáo dục

+ Học sinh được tạo điều kiện tốt nhất để tham dự các cuộc thi ” giải toán trên mạng Internet ” cấp trường và cấp huyện, cuộc thi “khảo sát chất lượng học sinh giỏi” cấp trường diễn ra đều đặn vào cuối tháng 3 hàng năm – Hàng tuần, học sinh đều có tiết học để luyện thêm Toán vào buổi chiều. – Nhà trường tổ chức các buổi ngoại khoá Toán cho học sinh từng khối lớp riêng. –

Tổ chức các sân chơi bằng cách giao lưu giữa các trưòng bạn trên cùng địa bàn

để học sinh có dịp mở rộng kiến thức về môn Toán. II. KHẢ NĂNG VÀ THỰC TRẠNG DẠY – HỌC TOÁN CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH TIỂU HỌC HIỆN NAY. 1. Về giáo viên: – Việc soạn giáo án chuẩn bị cho việc dạy trên lớp đối với 1 số giáo viên cũng như việc cho điểm và nhận xét trong vở học sinh cũng chưa được chu đáo việc dạy Toán của giáo viên ở các lớp Tiểu học phải được tiến hành theo hai khâu cơ bản sau: – Soạn giáo án Toán: – Thực hiện giáo án trong giờ dạy trên lớp. + Đồ dùng dạy học : còn sơ sài , tạm bợ, cũ, đồ dùng trực quan chưa bắt mắt để thu hút học sinh vào tiết học + Giáo viên ngại soạn giáo án Power Point và dạy trình chiếu trong khi trường đã đầy đủ các phương tiện hỗ trợ cho giáo viên khi giảng dạy. + Phương pháp dạy học: Chưa sử dụng nhiều phương pháp dạy học như : phương pháp phương pháp trực quan, so sánh, phương pháp luyện tập mà chỉ sử dụng phương pháp gợi mở qua quýt rồi cho học sinh làm bài tập rồi chuyển sang tiết khác .Giáo viên

nghĩ :” Giải Toán có lời văn” chỉ cần thiết khi học sinh bước vào “tiết 84- Bài toán có lời văn” nên chỉ chú trọng vào dạy kĩ năng đặt tính, làm tính của học sinh mà không nghĩ đó là những bài toán làm bước đệm cho học sinh được bắt đầu từ” tiết 26: Phép cộng trong phạm vi 3″ tuần 7 cho đến: “tiết 63: Luyện tập” tuần 16 mới kết thúc giai đoạn chuẩn bị chính thức bước vào giai đoạn học “Giải Toán có lời văn” + Trình bày bảng: chưa khoa học, chữ viết mẫu xấu, chưa tỉ mỉ. Môn Toán rất khô và cứng vì thế, chưa tạo được sự hững thú khi dạy và học phân môn này, ở trong một số trường khi đi kiểm tra, tình trạng như trên vẫn còn tồn tại dẫn đến hiệu quả trong tiết Toán chưa đạt được như mong muốn . 2. Về học sinh. – Vào lớp 1, lần đầu tiên trẻ được tiếp xúc với toán học với tư cách là 1 môn học, rèn luyện với các thao tác tư duy như là so sánh, quan sát, phân tích,. . . .Thật là một thử thách lớn đối với học sinh trong khi trẻ đọc chưa thông, viết chưa thạo. Làm sao để trẻ tập trung chú ý vào để học. Chủ yếu do 1 số nguyên nhân sau: + Tư duy của học sinh còn mang tính trực quan là chủ yếu. + Đọc được đề bài nhưng chưa hiểu đề bài, chưa biết thế nào là tìm hiểu bài toán có lời văn. + Không biết tìm hiểu bài toán như: bài toán cho biết gì?Bài toán hỏi gì? + Không hiểu các thuật ngữ toán học như: thêm, bớt, cho đi, mua về, bay đi, chạy đến,. . . và câu hỏi: Có tất cả bao nhiêu? Còn lại bao nhiêu? . . . . + Không biết tóm tắt bài toán, lúng túng khi nêu câu lời giải, có khi học sinh nêu lại câu hỏi của bài toán. Không hiểu thuật ngữ toán học nên không biết nên cộng hay trừ dẫn đến nói sai, viết sai phép tính, sai đơn vị, viết sai đáp số.

+ Một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không biết trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. + Khi về nhà học sinh lại chưa được bố mẹ quan tâm đến bài vở của con do đi làm vất vả hoặc muốn quan tâm nhưng không biết dạy con sao cho đúng phương pháp dẫn đến giáo viên rất vất vả khi dạy đến dạng bài toán có lời văn.

– Đồng chí có thích dạy Toán không? – Trong tiết dạy giải Toán có lời văn đồng chí thường chú trọng những bước nào? Vì sao? – Đồng chí thường sử dụng phương pháp nào trong tiết dạy Toán đó? – Trong quá trình dạy giải Toán có lời văn đồng chí thường gặp những khó khăn gì? – Học sinh thường mắc những lỗi gì trong bài khi học giải Toán có lời văn? – Đồng chí có cách nào để đổi mới phương pháp dạy học Toán? – Đồng chí có kiến nghị gì với cấp trên? 2. Khảo sát kĩ năng học giải Toán có lời văn của học sinh lớp 1. Tôi đã tìm hiểu và quyết định yêu cầu học sinh làm 1 số yêu cầu sau: Câu 1: Trả lời các câu hỏi sau: – Em có thích học giải Toán có lời văn không? – Sau khi thầy cô hướng dẫn giải toán có lời văn em thấy mình có thể làm được bài không? – Điểm bài Toán đó của em như thế nào? – Khi giải bài toán có lời văn em thường mắc những lỗi gì? Câu 2: Bài giải Học sinh giải bài toán sau: Lúc đầu tổ em có 5 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn? Sau khi tiến hành kiểm tra trước thực nghiệm, tôi thu được kết quả sau:

TS

Lớp

HỌC SINH Viết đúng câu Viết đúng phép Viết lời giải

35

1A3 3 = 8,57%

đúng Giải đúng cả

tính

đáp số

3 bước

21= 60,01%

5 =14, 28%

6 = 17, 14%

II. GIẢI PHÁP CỤ THỂ. Để chuẩn bị tốt cho phần học: Bài toán có lời văn.Học sinh đã phải trải qua 1 số giai đoạn cụ thể sau: 1. Giai đoạn 1: Quan sát tranh, nêu phép tính thích hợp.( Được bắt đầu từ tiết 27: luyện tập đến tiết 61: luyện tập) + Ở giai đoạn đầu tiên này học sinh được thường xuyên làm quen với dạng toán quan sát tranh nêu phép tính thích hợp. Tôi hiểu đó chính là yêu cầu: tập biểu thị tình huống trong tranh bằng 1 phép tính thích hợp. VD: Bài 5 tiết luyện tập trang 46.

1

+

2

=

3

– Bài đầu tiên rất quan trọng nên tôi cho học sinh quan sát kĩ tranh để học sinh biết được” Có mấy quả bóng? Thêm mấy quả bóng? Hỏi có tất cả máy quả bóng?”.Sau đó tôi giúp học sinh nêu thành bài toán đơn với 1 phép tính cộng: ” An có 1 quả bóng. Hà có 2 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?”. Cho nhiều học sinh nêu lại bài toán theo ý hiểu của mình, không bắt buộc phải giống y nguyên bài toán mẫu của cô. – Tôi nhấn mạnh vào từ: “có, thêm, có tất cả” để học sinh dần hiểu được: ” thêm” có nghĩa là: “cộng” và cụm từ: ” có tất cả” để chắc chắn rằng chúng ta sẽ thực hiện viết phép tính cộng vào ô trống đó. Tôi cũng không áp đặt học sinh cứ phải nêu phép tính theo ý giáo viên mà có thể nêu: 1 + 2 = 3 hoặc 2 + 1 = 3

1

+

2

=

3

– Tôi đã hướng dẫn học sinh làm theo đúng mục tiêu của dạng bài tập này là: Giúp học sinh hình thành kĩ năng biểu thị một tình huống của bài toán bằng một phép tính tương ứng với mỗi tranh vẽ. VD: Bài 5( b) trang 50.Viết phép tính thích hợp. Cho học sinh xem tranh, nêu bài toán: Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh có thể nêu: 1. Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh viết:

4+1=5

2. Có 1 con chim đang bay và 4 con chim đậu trên cành. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh viết phép tính: 1 + 4 = 5 3.Có 5 con chim, bay mất 1 con. hỏi còn lại mấy con? Học sinh viết phép tính: 5 – 1 = 4 3. Có tất cả 5 con chim, trong đó có 4 con đậu trên cành. Hỏi có mấy con đang bay? Học sinh viết phép tính: 5 – 4 =1 Có rất nhiều cách để nêu, giải bài, có nhiều kết quả đúng toán tôi thường xuyên khuyến khích học sinh làm như vậy. nhưng với bức tranh của bài 5b trang 50. Tôi sẽ hướng dẫn để học sinh có thể viết: 1+4=5 để phép tính phù hợp với tình huống của bài toán nêu ra. – Tương tự như vậy cho đến hết tiết 61: Luyện tập trang 85. – Như vậy qua giai đoạn 1 học sinh của tôi đã hình thành tốt kĩ năng khi làm dạng bài tập như trên. Đó là:

2. Giai đoạn 2: Tuần 16: (Từ tiết 62 trang 87 đến hết tiết 83 trang 113) Từ giai đoạn này, học sinh không quan sát tranh để nêu phép tính thích hợp nữa mà chuyển sang: ” Viết phép tính thích hợp” dựa vào tóm tắt bài toán. Bài 3( b) trang 87:

Có : 10 quả bóng

Cho: 3 quả bóng

Còn : . . . quả bóng Tương tự như ở giai đoạn 1.Tôi tiếp tục cho học sinh đọc nhiều lần tóm tắt bài toán rồi căn cứ vào thuật ngữ: : “Có, cho, còn” để tiếp tục hướng dẫn học sinh: ” cho” là bớt đi và từ “còn” là chúng ta phải thực hiện phép tính trừ vào ô trống. 10 – 3 = 7 Như vậy ở giai đoạn này học sinh đã quen dần với cách nêu bài toán, câu trả lời bằng miệng. Rèn luyện thành thạo kĩ năng này sẽ rất thuận lợi khi học sinh bươc vào giai đoạn học: ” giải toán có lời văn” 4. Giai đoạn 3: Từ (tiết 84: bài toán có lời văn) trang 115 đến cuối năm học sinh chính thức học, rèn luyện giải bài toán có lời văn. a.Nhận biết cấu tạo bài toán có lời văn. Tiết 84: Bài toán có lời văn. Học sinh được học với đề toán chưa hoàn thiện. Tiếp tục sử dụng kĩ năng quan sát tranh, học sinh đã rất thành thạo ở giai đoạn 2 vậy nên hoàn thiện nốt đề bài toán là điều không khó đối với học sinh lớp tôi. Tiếp tục tôi giảng để học sinh nắm chắc một bài toán có lời văn ở lớp 1 gồm 2 phần: + Phần cho biết, phần hỏi.( Phần cho biết gồm 2 ý: Có . . . cho thêm.Có . . .và.Có. . . bay đi, . . . .) Bài toán có lời văn còn thiếu số và câu hỏi: ( cái đã cho, cái cần tìm) Gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau. VD: Bài 1 ( trang 115).Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán. Bài toán 1: Có …bạn, có thêm… bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?

Bài toán 2: Có … con , có thêm … con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ ? * Bài toán còn thiếu câu hỏi ( cái cần tìm) Bài 3 Viết tiếp câu hỏi để có bài toán. Bài toán 3 : Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. Hỏi ………………………………………………….? * Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi ( cái đã cho và cái cần tìm) Bài toán 4: Có … con chim đậu trên cành, có thêm….con chim bay đến. Hỏi ………………………………………………….? – Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu là cái cần tìm. Bước 1: GV đặt câu hỏi – HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu trên bảng lớp. Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của bài toán. Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác định bài 1 và bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiều được đây là dạng toán có lời văn phải có đủ dữ kiện. b.Quy trình giải toán có lời văn. Gồm các bước: – Tìm hiểu bài toán.

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 2 Giải Toán Có Lời Văn

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở Tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Trong nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy việc dạy giải toán có lời văn trong chương trình toán bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng là hết sức cần thiết, ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn hạn chế về mặt suy luận, phân tích nên việc dạy giải toán có lời văn ở tiểu học sẽ góp phần giúp cho học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú và hình thành khả năng giải toan có lời văn, đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt môn toán sau này ở các cấp học trên. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: – Nghiên cứu sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ năng để nắm được chương trình của toán lớp 2. Trên cơ sở lí luận thực tiễn phân tích những ưu điểm, tồn tại để tìm ra những biện pháp, giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy mạch kiến thức giải toán có lời văn. – Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh khi giải toán có lời văn. – Đề xuất biện pháp khắc phục những sai lầm cho học sinh khi giải toán có lời văn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: – Phương pháp dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn lớp 2. – Học sinh lớp 2 trường tiểu học Xuân Lập – Thọ Xuân. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: – Phương pháp điều tra: + Thông qua việc dự giờ của giáo viên cùng khối trong đơn vị và dự giờ môn toán của giáo viên các khối khác để học tập, rút king nghiệm cho bản thân. + Căn cứ vào kết quả làm bài của học sinh ở các tiết dạy trên lớp và điểm kiếm tra định kì cuối kì 1, cuối kì 2 giáo viên đánh giá, đối chiếu số liệu học sinh hoàn thành mục tiêu môn học để có biện pháp phù hợp, kịp thời với từng đối tượng học sinh. B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán, đáp ứng theo yêu cầu của chương trình, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em rất nhiều việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Ta thấy rằng, giải toán ở Tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lôgíc. Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc. Thực tế tôi thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số. Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?… Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 1. Thực trạng chung: – Đa số các đồng chí giáo viên đã xác định được việc dạy “giải toán có lời văn” trong chương trình môn toán lớp 2 là rất quan trọng nên các đồng chí chuẩn bị bài rất chu đáo trước khi lên lớp, nhiều đồng chí đã chịu khó đầu tư, tìm tòi nghiên cứu để giờ dạy đạt kết quả cao. – Học sinh được trang bị kiến thức ngay từ cuối năm lớp 1 nên cũng có nhiều thuận lợi cho việc giải toán ở lớp 2. – Đa số học sinh có ý thức học tập tốt, có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập phục vụ cho việc học tập của các em. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số lỗi mà giáo viên và học sinh còn mắc phải như: 2. Thực trạng đối với giáo viên. – Khi dạy giải toán cho học sinh, giáo viên mới chỉ cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản mà sách giáo khoa đã biên soạn, giáo viên chưa chú trọng việc ra bài tập cho học sinh làm thêm, phụ đạo thêm để học sinh được luyện tập nhiều, chưa dành thời gian để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành. – Giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi mà chỉ chú ý đến việc cho học sinh ghi nhớ công thức và giải quyết một cách máy móc nên hiệu quả giảng dạy chưa cao. – Nhiều giáo viên trong giờ dạy chưa chú trọng đến cả ba đối tượng, số học sinh nắm bắt kiến thức không đồng đều, chất lượng đại trà chưa cao, nên chưa phát huy được khả năng phát triển toán học của các em. 3. Thực trạng đối với học sinh. Khi giải toán đơn học sinh còn giải toán một cách thụ động, máy móc theo yêu cầu của giáo viên, học sinh chỉ biết giải những bài toán cụ thể chưa biết linh hoạt so sánh và liên hệ với các bài toán khác. – Khi gặp những bài toán có dữ liệu “không tường minh” học sinh thường hay lúng túng do chưa hiểu rõ đề bài và chưa có kĩ năng phân tích đề toán. – Nhiều học sinh đọc còn chưa thông nên việc đọc kĩ đề toán là một việc khó khăn nên dẫn đến giải bài toán sai. – Nhiều em lựa chọn lời giải chưa hay, chưa phù hợp với nội dung bài toán. – Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp 4. Kết quả của thực trạng trên: Qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm của 34 em học sinh lớp 2 tôi thu được kết quả như sau: Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 4 11,7 8 23,5 10 29,5 12 35,3 Qua kết quả điều tra thực trạng trên tôi nhận thấy đây là kiến thức trọng tâm của chương trình toán 2 mà còn rất nhiều học sinh nắm chưa vững. Đây là vấn đề cần phải khắc phục ngay để giúp các em có đầy đủ kiến thức chuẩn bị cho việc học toán ở các lớp trên và giúp các em vận dụng vào tính toán trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy tôi đã tìm ra cách khắc phục thực tế trên trong việc dạy giải toán cho học sinh lớp 2 như sau: III. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN: 1. Giải pháp chung: Giải pháp 1: Nắm vững nội dung chương trình toán 2. Giải pháp 2: Giúp học sinh có kĩ năng giải tốt một số dạng toán có lời văn trong chương trình toán 2. Giải pháp 3: Tăng cường luyện tập các bài toán có lời văn cho học sinh. Giải pháp 4: Dạy học quan tâm đồng đều đến tất cả các đối tượng học sinh. Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ toán. 2. Các biện pháp tổ chức thực hiện: 2.1. Biện pháp 1: Nghiên cứu chương trình toán 2, sau đó phân loại các dạng bài trong phần giải toán có lời văn ở lớp 2. Được phân công dạy lớp 2 nhiều năm tôi đã nghiên cứu và nắm vững nội dung chương trình toán 2. Tôi nhận thấy: Trong phần giải các bài toán có lời văn được lồng ghép, xuyên suốt trong toàn bộ chương trình. Ở tất cả các tiết học hầu như đều có ít nhất một bài toán có lời văn. Qua nghiên cứu, tôi đã lọc ra một số dạng bài toán có lời văn thường gặp ở lớp 2 như sau: Dạng 1: Tìm số bị trừ. Ví dụ: Trên bờ có một số con vịt. Khi 8 con vịt đã xuống ao thì còn lại 7 con vịt. Hỏi trên bờ lúc đầu có bao nhiêu con vịt? Dạng 2: Bớt đi 1 số đơn vị ở mỗi số. Ví dụ: Gà đẻ được 51 quả trứng. Mẹ đã lấy 6 quả để làm món ăn. Hỏi còn bao nhiêu quả trứng? Dạng 3: Tìm số hạng chưa biết. Ví dụ: Cả cam và quýt có 45 quả trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt? Dạng 4: Tìm số trừ. Ví dụ: Một bến xe có 35 ôtô, sau khi một số ôtô rời bến thì trong bến còn lại 10 ôtô. Hỏi có bao nhiêu ôtô rời bến? Dạng 5: Bài toán về nhiều hơn, ít hơn. (hoặc thêm, bớt) + Lớp 2A có 15 bạn gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3 bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai ? + Tháng trước tổ em có 16 bạn được khen, tháng này tổ em có nhiều hơn tháng trước 5 bạn được khen. Hỏi tháng này tổ em có bao nhiêu bạn được khen? … 2.2. Biện pháp 2: Hình thành kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh qua một số dạng bài : Dạng 1: Tìm số bị trừ. Ví dụ: Trên bờ có một số con vịt. Khi 8 con vịt đã xuống ao thì còn lại 7 con vịt. Hỏi trên bờ lúc đầu có bao nhiêu con vịt? Tôi đã hướng dẫn học sinh giải dạng toán này như sau: Bước 1 : Đọc và phân tích đề bài: Đối với dạng toán này yêu cầu học sinh tìm hiểu kĩ nội dung đề bài để hiểu rõ bài toán cho biết gì? ( Trên bờ có một số con vịt, có 8 con vịt xuống ao, còn lại 7 con vịt) Khi đọc xong bài này học sinh phải hiểu kĩ từ “xuống ao” và thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho để tóm tắt đề toán. Giáo viên cho học sinh tự tìm tòi và tự tóm tắt theo cách hiểu của mình, sau đó giáo viên đưa ra cách tóm tắt phù hợp nhất. Tóm tắt: Trên bờ có: ? con vịt Đã xuống ao: 8 con vịt Còn lại : 7 con vịt Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán. Từ bước 2 tôi đã diễn giải để học sinh tìm cách giải như sau: ? – 8 = 7 Số vịt trên bờ Số vịt xuống ao Số vịt còn lại Giáo viên Học sinh ? Bài toán này yêu cầu ta tìm gì? – Số vịt lúc đầu trên bờ Giáo viên phân tích cho học sinh nhận ra các thành phần trong phép trừ. – Học sinh quan sát ? Hãy nhắc lại cho cô các thành phần trong phép tính trừ? – Số bị trừ – số trừ = hiệu ? Nhìn vào sơ đồ em thấy bài toán yêu cầu tìm gì? – Số bị trừ ? Muốn tìm số bị trừ ta làm như thế nào? – Ta lấy hiệu + số trừ ? Đối với bài toán này ta làm như thế nào? – Lấy số vịt còn lại + số vịt đã xuống ao. Bước 4: Thực hiện tính theo trình tự để viết bài giải. – Học sinh tự tìm ra lời giải của bài toán. Bài giải + Số vịt trên bờ lúc đầu là (câu lời giải được ghi dưới dạng mệnh đề khẳng định) Hoặc: Trên bờ có số vịt là: 7 + 8 = 15 ( con vịt) Đáp số: 15 con vịt Bước 5: Kiểm tra lời giải, phép tính và đáp số. – Học sinh nêu ra lời giải của mình. – Học sinh nhận xét lời giải của bạn. – Giáo viên đưa ra lời giải đúng. – Học sinh tự sửa chữa bài của mình. – Học sinh có thể giải bằng cách khác (nếu có). Dạng 2: Bớt đi 1 số đơn vị ở mỗi số. Ví dụ: Gà đẻ được 51 quả trứng. Mẹ đã lấy 6 quả để làm món ăn. Hỏi còn bao nhiêu quả trứng? Tôi cũng hướng dẫn giải theo các bước sau: Bước 1: Đọc và phân tích đề bài ? Bài toán cho biết gì ? – Gà đẻ được 51 quả trứng, lấy đi 6 quả làm món ăn. ? Bài toán hỏi gì? – Còn lại bao nhiêu quả trứng. Tôi chú ý giải thích cho học sinh hiểu được từ ” lấy đi” có nghĩa là ” bớt đi” Bước 2: Tóm tắt đề bằng ngôn ngữ Gà đẻ: 51 quả trứng. Lấy đi: 6 quả trứng. Còn lại: ? quả trứng. Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán. ? Muốn biết còn lại bao nhiêu quả trứng ta làm như thế nào? ( Lấy số quả trứng có lúc đầu (51 quả) trừ đi Số trứng lấy đi ( 6 quả)). Bước 4: Giải bài toán Học sinh đặt lời giải ứng với yêu cầu của đề bài Bài giải Số quả trứng còn lại là: 51 – 6 = 45 (quả) Đáp số: 45 quả trứng. Bước 5: Kiểm tra bài giải. Học sinh tự đánh giá bài của mình và của bạn bằng cách đổi chéo vở để kiểm tra kết qủa cho nhau (dựa trên kết quả đúng mà giáo viên đã đưa ra nhận xét trên bảng) Dạng 3: Tìm số hạng chưa biết. Ví dụ: Cả cam và quýt có 45 quả trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt? Bước 1: Đọc và phân tích đề bài. ? Bài toán cho biết gì? (45 quả vừa cam, vừa quýt, có 25 quả cam). ? Bài toán hỏi gì? ( Có bao nhiêu quả quýt) Bước 2: Tóm tắt bài toán. Bài toán này tóm tắt bằng ngôn ngữ ngắn gọn. 45 quả 25 quả cam. ? quả quýt. Bước 3: phân tích bài toán để tìm cách giải. Bài toán có thể biểu diễn như sau: 25 quả cam + ? quả quýt = 45 quả. ? Nêu tên gọi và thành phần của phép tính trên – Số hạng + số hạng = tổng ? Phép tính yêu cầu gì? – Tìm số quả quýt (Chính là số hạng chưa biết ) ? Muốn tìm số hạng chưa biết ta làm như thế nào? – Lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. ? Áp dụng bài toán này ta làm như thế nào? – Lấy 45 quả trừ đi 25 quả ta tìm được số quả quýt. Bước 4: Giải bài toán ? Bài tập yêu cầu chúng ta tìm gì? – Tìm số quả quýt ? Lời giải bài toán như thế nào? – Số quả quýt có là : ? Nêu phép tính thích hợp? 45 – 25 = 20 ( quả quýt) Bước 5: Kiểm tra bài giải. Học sinh tự kiểm tra lời giải của mình bằng cách so sánh bài của mình với bài của bạn và bài của cô giáo. Dạng 4: Tìm số trừ. Ví dụ: Một bến xe có 35 ôtô, sau khi 1 số ôtô rời bến thì trong bến còn lại 10 ôtô. Hỏi có bao nhiêu ôtô rời bến? Bước1: Đọc và phân tích đề bài. ? Bài toán cho biết gì? – Bến xe có 35 ôtô. Còn lại 10 xe ô tô. ? Bài toán hỏi gì? – Có bao nhiêu xe đã rời bến. Đối với bài này tôi phân tích cho học sinh hiểu các từ ” có”, ” rời bến” và mối liên hệ giữa các từ này. Bước 2: Tóm tắt đề bài. Tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng ngôn ngữ ngắn gọn như sau: Có : 35 ôtô Rời bến : ? ôtô Còn lại: 10 ôtô Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán Bài toán có thể viết thành: Có – Rời bến = Còn lại 35 ôtô ? ôtô 10 ôtô ? Hãy cho biết tên gọi các thành phần trong phép trừ? – Số bị trừ, số trừ, hiệu ? Muốn tìm số trừ ta làm như thế nào? – Lấy số bị trừ trừ đi hiệu? ? Vậy muốn tìm số ô tô rời bến ta làm như thế nào? – Lấy số ô tô có (35 ô tô) trừ đi số ô tô còn lại ( 10 ô tô) Bước 4 : Giải bài toán ? Bạn nào đặt cho cô lời giải bài toán này? ( số ô tô rời bến là) Học sinh giải bài toán vào vở. Bài giải Số ôtô rời bến là: 35 – 10 = 25 ( ôtô) Đáp số: 25 ôtô Bước 5: Kiểm tra bài giải So sánh bài của mình và bài của bạn hoặc bài giải của giáo viên để có kết quả đúng. Dạng 5: Bài toán về nhiều hơn, ít hơn. Ví dụ: Hoà có 4 bông hoa, bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. Hỏi Bình có mấy bông hoa? – Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán: + Bài toán này thuộc dạng toán nào? + Đề bài cho chúng ta biết cái gì? + GV hướng dẫn cho HS tìm hiểu bước 2. – Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán: 4 bông hoa Biểu thị số bông hoa bằng sơ đồ đoạn thẳng. 2 bông hoa Hoà: Bình: ? bông hoa + Tìm cách giải bài toán: Nhìn vào tóm tắt cho thấy Bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. – Muốn tìm số bông hoa của Bình thì ta phải tìm thế nào? * Thực hiện cách giải: Bình có số bông hoa là: 4 + 2 = 6 ( bông ) Đáp số: 6 bông hoa. * Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? (Bài tập 1, Tr. 30- SGK Toán 2) 17 cây – Hướng dẫn HS tóm tắt: Vườn nhà Mai: 7 cây Vườn nhà Hoa: ? cây Bài giải: Vườn nhà Hoa có số cây cam là: 17 – 7 = 10 (cây) Đáp số: 10 cây cam. 2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn qua thực hiện qua các bước cụ thể. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: Để học sinh lớp 2 thực hiện tốt các bài tập giải toán có lời văn thì giáo viên cần cung cấp hướng dẫn học sinh thực hiện thuần thục các bước giải bài toán. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy trên lớp, tôi luôn chú ý hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải của bài toán có lời văn như sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán. Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả” Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại: “ Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán Bước 2: Tìm cách giải bài toán. a. Chọn phép tính giải thích hợp: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép tính cộng” nếu bài toán yêu cầu “ nhiều hơn” hoặc “ gộp”, “ tất cả”. Chọn “ phép tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm phần còn lại” hay là “ít hơn” Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi ý như: + Bài toán cho biết gì? ( Vườn nhà Mai có 17 cây cam) + Bài toán còn cho biết gì nữa? (Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây) + Bài toán hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam) + Muốn biết vườn nhà Hoa