Top 7 # Xe Tăng Giải Phóng Miền Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Caffebenevietnam.com

Ký Ức Ngày Giải Phóng Miền Nam Của Người Lính Xe Tăng

Đã 44 năm trôi qua, nhưng ký ức về buổi sáng 30/4/1975 lịch sử, về trận đấu ác liệt giữa ta và địch trong Chiến dịch mang tên Bác vẫn không phai mờ trong tâm trí ông Nguyễn Trần Đoàn – người lính xe tăng Trung đoàn 273, hiện đang sinh sống tại thành phố Hải Phòng.

Với ông, niềm vinh dự nhất là có mặt trong đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn, được đóng góp một phần công sức bé nhỏ của mình vào chiến thắng của dân tộc.

Ông Nguyễn Trần Đoàn cùng những cựu chiến binh Hải Phòng ôn lại ký ức về ngày giải phóng.

Sau giải phóng Buôn Ma Thuột (tháng 3/1975), Trung đoàn xe tăng 273 được lệnh hành quân tiến về Sài Gòn. Sáng 27/4, khi đang cùng đồng đội ém quân tại khu rừng thưa ven sông Sài Gòn, ông Nguyễn Trần Đoàn – khi đó là trưởng xe tăng R153 (đại đội 11, tiểu đoàn 1, Trung đoàn 273) được chính trị viên đại đội thông báo: “Chúng ta đã mở chiến dịch Hồ Chí Minh – chiến dịch mang tên Bác. Các đồng chí vừa đánh, vừa giữ để giải phóng, tiếp quản Sài Gòn”. Ông Nguyễn Trần Đoàn cùng đồng đội vô cùng phấn khởi, hừng hực khí thế xung trận.

“ Sáng 29/4/1975, chúng tôi bắt đầu xuất quân, xếp thành hàng đi, tôi được biên chế đi thứ 7 trong cánh quân Tây Bắc. Chạy đến đường 1, tôi nhìn thấy 23 cái M113, tức là xe bọc thép của ngụy. Đặc công phát hiện được, bắn trả. Đoàn hành quân của chúng tôi tập kết ở phía sau, đánh trận đầu tiên, đánh gọn 23 cái M113 của Ngụy” – ông Đoàn kể lại.

Sau chiến thắng tại cầu Bông, sáng 30/4/1975, đoàn xe tăng của ông Nguyễn Trần Đoàn và các đơn vị bộ binh làm nhiệm vụ đột phá, dũng mãnh tiến thẳng về hướng Ngã tư Bảy Hiền.

Trên đường đi, cứ cách khoảng 100 mét, địch lại đắp một lũy bằng đất, rào bùng nhùng bằng dây thép gai từ bên trái qua 2/3 bên phải đường; rồi lại từ phải qua trái. Đầu các ngõ hẻm, xe tăng M41, M48 của địch đã phục sẵn nhả đạn vào xe tăng và đội hình tiến quân của ta. Các pháo thủ của ta dùng súng 12 ly 7 bắn vào mặt lũy, đồng thời, từ xa đã bắn áp đảo vào các cửa sổ nhà cao tầng 2 bên phố, phòng địch phục kích.

Đến ngã tư Bảy Hiền, xe tăng của ông Nguyễn Trần Đoàn bị pháo kích. Sau ánh chớp và tiếng nổ đinh tai, ông Đoàn thấy chiến sĩ bộ binh phía cửa xe bị thương. Ông đưa tay kéo đồng đội lại thì một quả đạn tiếp theo nổ, cánh tay trái của ông đứt lìa.

Bình tĩnh ngồi xuống, kéo cánh tay “lủng lẳng” vướng ngoài cửa xe vào lòng, ông Đoàn garô vết thương, nén cơn đau, tiếp tục chỉ huy xe chiến đấu. Do chỉ còn một tay nên hướng súng không được chuẩn, ông mới gọi điện báo bị thương.

Ông Nguyễn Trần Đoàn được khênh xuống xe, nằm lại trên đường và ngất lịm đi, trong khi đồng đội và xe tăng của ông tiến thẳng hướng Tân Sơn Nhất.

Ông Nguyễn Trần Đoàn say sưa kể về những kỷ niệm, những ký ức ngày giải phóng 44 năm về trước.

Tỉnh dậy với cánh tay trái đã được cắt và băng bó cẩn thận, cũng là lúc ông Nguyễn Trần Đoàn nghe thông tin chiến thắng.

“Khoảng 3, 4h chiều, tôi tỉnh dậy, hỏi cô y tá: “Mình đánh đến đâu rồi?”. Cô trả lời “Giải phóng hoàn toàn rồi”, lúc ấy tôi òa lên khóc. Tất cả nhân viên y tế và anh em thương binh hân hoan, hấn khởi lắm. Sau trận này sẽ không ai bị thương nữa, không ai hy sinh nữa. Mình sẽ là những thương binh cuối cùng. Đấy là hạnh phúc nhất” – ông Nguyễn Trần Đoàn kể lại.

Trưởng xe tăng Nguyễn Trần Đoàn giờ là chủ Doanh nghiệp Vận tải 273, một doanh nghiệp kinh doanh thành công tại thành phố Hải Phòng và có nhiều hoạt động xã hội ý nghĩa, như: tặng quà, giúp đỡ các gia đình chính sách, xây nhà tình nghĩa tặng các cựu chiến binh có hoàn cảnh khó khăn, tặng học bổng cho con em cựu chiến binh…

Sự anh dũng, quả cảm trong chiến đấu, nghị lực mạnh mẽ và lòng nhân ái của ông Nguyễn Trần Đoàn luôn khiến mọi người nể phục.

Ông Nguyễn Hữu Nhị – trưởng xe tăng R154, Trung đoàn 273 năm xưa, hiện sống tại phường Đông Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nhận xét, ông Đoàn có tình đồng đội rất cao, chiến đấu rất quả cảm, khi bị thương, vẫn chiến đấu hết mình.

“Sau đó ông Đoàn học đại học rồi lập công ty, lấy tên lữ đoàn đặt cho công ty. Điều đấy chứng tỏ ông luôn tâm niệm và hướng về đơn vị, lấy thành tích đơn vị 2 lần anh hùng trong chiến đấu để noi theo, đồng thời hết sức mình để thực hiện lời dạy của Bác “thương binh tàn nhưng không phế” – ông Nguyễn Hữu Nhị cho biết./.

Bất Ngờ Về Chiếc Xe Tăng Đầu Tiên Của Quân Giải Phóng Miền Nam: Liên Xô Hay Trung Quốc?

Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Tổng tham mưu: “xe chưa xung trận thì người xung trận trước”, trong 2 năm 1964- 1965 gần 300 cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn xe tăng 202 đã hành quân bộ vượt hàng nghìn ki- lô- mét vào chiến trường B2 với nhiệm vụ “chuẩn bị chiến trường cho xe tăng” và “lấy xe địch đánh địch”.

Sau khi vào chiến trường, các đoàn đã được gom lại và thành lập “Đoàn cơ giới Miền” với mật danh là J16, trong đó có Đại đội đặc công 40.

Trận đánh đầu tiên mà J16 được tham gia là chiến dịch Đồng Xoài (tháng 5.1965) với nhiệm vụ thu xe chiến lợi phẩm của địch. Tuy nhiên, trong chiến dịch này ta không thu được xe nào cả. Tiếp đó là một số trận đánh nữa nhưng kết quả vẫn như vậy.

Và rồi thời cơ đã đến. Thông qua các cơ quan địch vận của Miền, lãnh đạo Ban Cơ giới Miền và chỉ huy J16 biết trong đội ngũ Thiết đoàn 1 Kỵ binh Quân lực Việt Nam cộng hòa (VNCH) đang đóng tại căn cứ Gò Đậu (Phú Cường, Bình Dương) có một đảng viên do ta cài vào để tuyên truyền, lôi kéo binh sĩ địch là thiếu úy Phùng Văn Mười.

Cho đến thời điểm đó đồng chí Mười đã tuyên truyền giác ngộ được một số anh em nghĩa binh yêu nước sẵn sàng làm binh biến và trở về với cách mạng. Lãnh đạo Ban Cơ giới Miền và chỉ huy Đoàn J16 lập tức đề nghị lên trên cho tiến công căn cứ Thiết đoàn 1 này.

Kế hoạch tập kích Thiết đoàn 1 được hoạch định như sau: Trước giờ nổ súng, Đại đội 40 của J16 cùng bộ binh sẽ bí mật áp sát căn cứ. Trong lúc đó, các nghĩa binh cũng sẽ đột nhập khu để xe và chiếm một số xe địch.

Đến giờ hiệp đồng, hai bên sẽ phối hợp “trong đánh ra, ngoài đánh vào”. Trong khi bộ binh đánh vào căn cứ thì Đại đội 40 nhanh chóng đánh chiếm khu xe và cướp xe địch. Sau khi chiếm được xe sẽ tổ chức thành 3 hướng:

Hướng 1: chạy về phía Sài Gòn để tạo dư luận đảo chính, gây hoang mang cho địch và buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó; đến cầu Bình Phước thì hủy xe còn người trở về căn cứ.

Hướng 2: cùng với bộ binh đánh chiếm chi khu quân sự và dinh tỉnh trưởng Bình Dương để khuyếch trương kết quả trận đánh.

Cơ động về chiến khu qua ngả Bông Trang- Nhà Đỏ.

Đầu tháng 3 năm 1966, mọi công tác chuẩn bị cũng như liên lạc hiệp đồng với nhân mối đã hoàn thành. Tất cả đã sẵn sàng.

Đến chiếc xe tăng đầu tiên

Theo đúng kế hoạch, 19 giờ ngày 23.3.1966, khi đại bộ phận quân địch đang tập trung ăn nhậu, giải trí tại câu lạc bộ thì Đại đội 40 và các lực lượng khác của ta áp sát hàng rào căn cứ, các nghĩa binh thì bí mật chiếm được 3 xe.

Đến 20 giờ 15 phút, trận đánh bắt đầu. Khi pháo ta bắn vào căn cứ thì các nghĩa binh cũng dùng pháo súng trên xe bắn vào khu vực câu lạc bộ, nơi quân địch tập trung đông nhất.

Nhờ hiệp đồng chặt chẽ “nội công, ngoại kích” nên chỉ sau gần 1 giờ chiến đấu, quân ta đã làm chủ tình thế, tiêu diệt gần 200 tên địch, thu được 4 xe tăng M41 và 6 xe thiết giáp M113. Số xe này được chia thành 3 hướng theo đúng kế hoạch đã đề ra.

Tuy nhiên, do sử dụng xe chưa thật thành thạo, lại bị địch phản kích và dùng không quân đánh chặn quyết liệt nên chỉ có 1 chiếc M41 duy nhất do thiếu úy Phùng Văn Mười lái là vượt được vòng vây, dũng mãnh đánh qua căn cứ Trung đoàn BB9 của địch.

Sau đó, xe tăng được đồng chí Vũ Đức Hùng là cán bộ kỹ thuật của ta đón tại Bông Trang- Nhà Đỏ và chạy thẳng về chiến khu Long Nghĩa (nay thuộc xã Long Nguyên, huyện Bến Cát). Và thế là chiếc xe tăng M41 số hiệu 247 do Mỹ chế tạo đã trở thành chiếc xe tăng đầu tiên của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Là một đơn vị có vai trò trọng yếu tại Quân khu 3 và Biệt khu Thủ Đô, Thiết đoàn 1 Kỵ binh là đơn vị được trang bị hiện đại nhất, quân số đày đủ nhất trong lực lượng thiết kỵ VNCH lúc đó, có nhiệm vụ sẵn sàng cơ động bảo vệ thủ đô và dinh tổng thống. Vì vậy, trận đánh này có một tiếng vang rất lớn và làm rối loạn hàng ngũ địch.

Sau khi bị mất xe địch đã tổ chức truy lùng ráo riết. Để bảo vệ chiếc xe quý giá đã phải đổi bằng máu, bộ đội J16 đã đào hầm sâu, ngụy trang rất kỹ… để cất giấu nên mặc dù địch càn quét, truy tìm bằng nhiều cách khác nhau vẫn không phát hiện ra được.

Tại chiến khu Long Nghĩa, chiếc M41 này trở thành một “giáo cụ trực quan” hết sức quý giá để huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ TTG về cấu tạo xe máy, vũ khí, cách sử dụng xe và các trang thiết bị trên xe, cách phá hủy xe với các phương tiện khác nhau…

Đồng thời chiếc xe này cũng phục vụ huấn luyện các đơn vị bộ binh nắm được những điểm hiểm yếu trên xe, từng bước loại trừ tâm lý sợ TTG địch rất phổ biến lúc bấy giờ. Ngoài ra nó còn được dùng để huấn luyện cho bộ binh cách lên xuống xe khi hiệp đồng chiến đấu với xe tăng.

Tháng 9 năm 1968, khi quân địch nống ra càn quét sâu vào căn cứ của Miền, không thể đưa xe đi được quân ta buộc phải tháo dỡ vũ khí, trang thiết bị thông tin, khí tài quang học… đem về cứ mới và tổ chức chôn giấu xe xuống lòng đất. Sau này, khi địch rút ta lại đào xe lên và vẫn sử dụng tốt như thường.

Giải Phóng Hoàn Toàn Miền Nam

Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, Mỹ buộc phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Song, chúng không từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam, tiếp tục viện trợ, tạo điều kiện cho chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pari. Mỹ ra sức xây dựng quân đội ngụy Sài Gòn thành một đội quân tay sai “mạnh nhất ở Đông – Nam á”, với số quân trên 1 triệu 10 vạn tên, được tổ chức thành 4 quân đoàn gồm 13 sư đoàn và nhiều lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, với 1.850 máy bay các loại, 1.588 khẩu pháo, 2.074 xe tăng, 1.611 tàu chiến; với hàng triệu tấn vật tư chiến tranh được đưa vào miền Nam trước và sau khi ký Hiệp định Pari. Ngoài ra còn có lực lượng bảo an, dân vệ được trang bị đầy đủ. Chúng liên tiếp đưa ra nhiều kế hoạch chiến tranh với mục tiêu trong 3 năm (từ 1973-1975), chiếm hết tất cả các vùng giải phóng và đặt toàn bộ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chúng. Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam Việt Nam đã hình thành hai vùng kiểm soát, hai quân đội, hai chính quyền. Lực lượng vũ trang cách mạng đang đứng vững trên các địa bàn chiến lược quan trọng. Uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Hội nghị cấp cao của gần 80 nước Không liên kết họp tại Angiê, tháng 9-1973 đã công nhận Cộng hoà miền Nam Việt Nam là thành viên chính thức của Phong trào Không liên kết, công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên là thắng lợi của chiến dịch Huế-Đà Nẵng (từ 19 đến 29-3-1975). Từ lúc chiến dịch Tây Nguyên mở đầu, quân và dân Trị-Thiên đã phối hợp hoạt động mạnh, tiến công và nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày 19-3-1975 toàn bộ tỉnh Quảng Trị được giải phóng. Tiếp đó, quân và dân Thừa Thiên-Huế đã hình thành thế bao vây Huế bằng nhiều mũi và khống chế chặn đường rút chạy ra biển và vào Đà Nẵng. Ngày 24-3, Tam Kỳ và Quảng Ngãi được giải phóng. Ngày 26-3-1975, các lực lượng vũ trang nhân dân đã tiến hành hợp vây và cùng với đông đảo lực lượng quần chúng cách mạng nổi dậy tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên-Huế gồm 4 vạn tên địch, làm chủ thành phố Huế và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên. Từ đầu tháng 4-1975, các binh đoàn chủ lực trên đường hành quân tiến về Sài Gòn đã đánh địch, giải phóng Phan Rang, Bình Thuận, Bình Tuy, Xuân Lộc, đánh chiếm Bà Rịa. Ngày 26-4-1975, cuộc tiến công lớn vào Sài Gòn bắt đầu. Những trận chiến đấu quyết liệt và những trận bão lửa dữ dội diễn ra trước hết ở hướng đông là hướng địch tập trung nhiều lực lượng và tổ chức chống cự rất điên cuồng. Từ khắp các hướng, năm cánh quân lớn phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương và được sự giúp sức của quần chúng nổi dậy, nhất loạt tấn công địch với sức mạnh vũ bão. Từ ngày 26 đến ngày 28-4, một bộ phận quan trọng lực lượng địch trên tuyến phòng thủ vòng ngoài bị tiêu diệt. Các binh đoàn chủ lực của quân giải phóng xiết chặt vòng vây xung quanh Sài Gòn. Hoảng sợ trước nguy cơ sắp bị tiêu diệt hoàn toàn, từ ngày 18-4-1975, Tổng thống Mỹ chúng tôi ra lệnh di tản gấp người Mỹ ở Sài Gòn bằng một lực lượng không quân và hải quân Mỹ. Ngụy quyền tay sai, sau khi Trần Văn Hương lên thay Thiệu (21-4) rồi Dương Văn Minh lên thay Hương (28-4) đã thực sự lâm vào cảnh tuyệt vọng. Ngày 30-4, với sự hiệp đồng chiến đấu rất anh dũng của các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, các lực lượng biệt động, tự vệ vùng ven và nội đô, cùng với sự nổi dậy đều khắp và rất kịp thời của quần chúng trong và ngoài thành phố, các cánh quân hùng mạnh đã thần tốc thọc sâu, tiến thẳng vào chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố Sài Gòn-Gia Định: Dinh Độc lập (tức Phủ Tổng thống ngụy), Bộ Tổng tham mưu và Khu Bộ tư lệnh các binh chủng của địch, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh, Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát. Nhân dân thành phố Sài Gòn hân hoan chào đón các lực lượng vũ trang, con em của mình và cùng bộ đội truy lùng địch, tước vũ khí của chúng, dẫn đường cho bộ đội, bảo vệ các cơ sở kinh tế và văn hoá. Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Đúng 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, lá cờ Cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc lập. Đây là thời điểm đánh dấu thành phố Sài Gòn-Gia Định hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Trên đà chiến thắng, từ ngày 30-4-1975, đồng bào và chiến sĩ các tỉnh Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, lần lượt giải phóng các tỉnh còn lại. Ngày 1-5-1975, toàn bộ lãnh thổ đất liền miền Nam đã được giải phóng.

Ngày Lễ Giải Phóng Miền Nam Tiếng Anh Là Gì, Miền Nam Việt Nam

Cách đọc và viết Ngày lễ Giải phóng Miền nam Thống nhất Đất nước tiếng Anh là gì, dịch nghĩa đầy đủ nhất để người nước ngoài có thể hiểu. Đây là ngày lễ quốc gia (Public Holiday) của Việt Nam, với nhiều cách gọi khác nhau trong tiếng Anh, mà chúng tôi sẽ giới thiệu đầy đủ để mọi người dùng tham khảo.

Đang xem: Miền nam tiếng anh là gì

“Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” tiếng Anh là gì?

Trong tên tiếng Việt, ngày lễ 30 tháng 4 có tên chính thứclà: “Ngày Giải phóng (hoàn toàn)miền Nam, thống nhất đất nước”, “Ngày Chiến thắng”,“Ngày thống nhất”, “Chiến thắng 30 tháng 4 lịch sử”.

Tên tiếng Anh phổ biến nhất của ngày lễ Giải phóng miền Nam,thống nhất đất nước là:

Liberation Day/Reunification Day – April 30 (Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước).

Liberation /libə’rei∫n/ – sự giải phóngeunification /’ri:ju:nifi’keiʃn/ – sự thống nhất, hợp nhất lại.Victory /’viktəri/ – chiến thắngNational /’næ∫nəl/ – (thuộc) quốc giaMark /mɑ:k/ – Đánh dấuIndependence /,indi’pendəns/ – Độc lậpThe south /saʊθ/ – miền Nam

Nhiều cách dịch sang tiếng Anh “Ngày giải phóng miền Nam”

Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước dịch sang tiếng Anh có thể dùng nhiều cụm từ khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng và cách nghĩ. Bạn có thể dùng cụm từ Reunification Day (Ngày Thống nhất), Victory Day (Ngày Chiến thắng) hay Liberation Day (Ngày Giải phóng hoặc Ngày Giải phóng miền Nam). Tên chính thức trong văn phong báo chí, văn bản cấp nhà nước thì dùng “Day of liberating the South for national reunification” (Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước).

Theo từ điển Wikipedia miêu tả ngày Giải phóng miền Nam, thốngnhất đất nước là ngày “is a publicholiday in Vietnam that marks the event when North Vietnamese and Việt Cộngforces captured Saigon (now Ho Chi Minh City) on April 30, 1975.” – Tạm dịch:“Đây là ngày lễ quốc gia Việt Nam, đánh dấusự kiện Bắc Việt Nam và Việt Cộng đánh bại Sài Gòn (Nay là TP.Hồ Chí Minh) vàongày 30 tháng 4 năm 1975”.

Hoặc có thể viết là ngày “Liberation of Saigon and reunification of Vietnam in 1975”, tạm dịch là “Giải phóng Sài Gòn và thống nhất Việt Nam năm 1975”. Hay “Vietnam Independence Day 30 April”, tức “Ngày độc lập Việt Nam 30 tháng 4”.

Cách viết và đọc ngày giải phóng miền Nam 30 tháng 4

Chúng ta phải biết phát âm và viết các ngày trong tháng, tháng trong năm. Hiện tại, tiếng Anh có 2 cách viết, là viết ngày trước tháng sau và tháng trước ngày sau. Mỗi cách viết lại có quy tắc đọc riêng mà chúng tôi sẽ hệ thống lại cho mọi người dễ nhớ.

-Ngày 30: thirtieth – /ˈθɜː.ti.əθ/

-Tháng 4: April – UK: ​ /ˈeɪ.prəl/

-Năm 1975: nineteen seventy five – /ˌnaɪnˈtiːn/ – chúng tôi /faɪv/

-Ngày trước, tháng sau: viết “On 30th April, 1975”đọc là “On the thirtieth of April, nineteen seventy five”.

-Tháng trước, ngày sau: viết “On April 30th, 1975”đọc là “April the thirtieth, nineteen seventy five”.

Dịch nghĩa Ngày lễ Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nướcViệt Nam trong tiếng Anh khá đa dạng, bạn có thể dựa trên những gợi ý củamister-map.com để dùng cho phù hợp. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều cách dùngkhác, từ phía những người dân dưới thời chính quyền cũ nói về ngày này là “Ngàytháng 4 đen tối”, “Ngày quốc hận”, “Ngày Sài Gòn thất thủ”. Nhưng đó là cáchnhìn của “bên thua cuộc” và không được chấp nhận tại Việt Nam. Chúng ta vẫn gọiđó là ngày lễ lớn “Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”, một ngày thiêngliêng của dân tộc sau 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vĩ đại.