Cập nhật thông tin chi tiết về Vbt Lịch Sử 9 Bài 31: Việt Nam Trong Năm Đầu Sau Đại Thắng Xuân 1975 mới nhất trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
VBT Lịch Sử 9 Bài 31: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng xuân 1975
Bài 1 trang 119 VBT Lịch sử 9: Điền vào bảng kiến thức phù hợp về tình hình Miền Bắc và Miền Nam sau Đại thắng mùa xuân 1975.
Trả lời:
Miền Bắc
– cách mạng xã hội chủ nghĩa đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện.
– những cơ sở vật chất – kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội bước đầu được xây dựng
– Hậu quả từ cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quâ của Mĩ để lại nặng nề. → quá trình tiến lên của đất nước bị chậm lại nhiều năm.
Miền Nam
– Miền Nam được giải phóng hoàn toàn. Chế độ thực dân mới của Mĩ và bộ máy chính quyền Sài Gòn trung ương sụp đổ.
– Cơ sở của chính quyền Sài Gòn tại các địa phương vẫn còn tồn tại.
– Nền kinh tế Miền Nam phát triển mất cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ của nước ngoài.
– Hệ quả của chính sách văn hóa ngu dân của Đế quốc Mĩ để lại rất nặng nề: tỉ lệ người mù chữ cao; trong xã hội phổ biến các tệ nạn: cờ bạc, ma túy, mãi dâm…
Bài 2 trang 119 VBT Lịch sử 9:
Trả lời:
– Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội.
– Hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Cam-pu-chia
– Đến năm 1976, căn bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế:
+ Diện tích trồng trọt tăng so với năm 1975.
+ Nhiều công trình, nhà máy được mở rộng, xây mới.
+ Sản lượng các sản phẩm đều vượt mức trước chiến tranh.
+ sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế phát triển mạnh.
– Có nhiều đóng góp tích cực đối với sự phát triển của cách mạng Lào và Cam-pu-chia.
Bài 3 trang 120 VBT Lịch sử 9: Hãy đánh dấu X vào ô trống trước ý trả lời đúng về chủ trương, biện pháp của Đảng và chính quyền cách mạng ở Miền Nam nhằm thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trong năm đầu dau đại thắng mùa xuân 1975.
Trả lời:
Bài 4 trang 120-121 VBT Lịch sử 9: Quốc hội khóa VI họp kì họp thứ nhất (từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976) dã có những quyết định gì về một nước Việt Nam thống nhất vè về cơ cấu tổ chức của nhà nước Việt Nam thống nhất đầu tiên?
Trả lời:
a. Về một nước Việt Nam thống nhất.
– Quyết định lấy tên nước ta là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
– Thông qua chính sách đối nội và đối ngoại.
– Quyết định: Quốc kì – Cờ đỏ sao vàng; Quốc ca – Tiến quân ca; Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
– Quyết định: Hà Nội là thủ đô; đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh.
b. Về cơ cấu tổ chức nhà nước Việt Nam thống nhất đầu tiên.
– Ở trưng ương.
– Bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
– Bầu ban dự thảo Hiến pháp.
– ở địa phương.
– Tổ chức thành 3 cấp chính quyền: Tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; Huyện và tương đương; Xã và tương đương.
– Bầu hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở các cấp chính quyền.
Bài 5 trang 121 VBT Lịch sử 9: Quá trình hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã trải qua những bước như thế nào? Hãy đánh dấu X vào ô trống trước ý trả lời đúng.
Trả lời:
Bài 6 trang 121 VBT Lịch sử 9: Việc thực hiện những nhiệm vụ cấp bách trước mắt và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước trong năm đầu sau kháng chiến chống Mĩ thắng lợi có ý nghĩa gì? Hãy đánh dấu X vào ô trống trước ý trả lời đúng.
Trả lời:
x
Nước ta đã thống nhất về mặt nhà nước, tạo ra những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, những khả năng to lớn để bảo vệ tổ quốc và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Ý Nghĩa Lịch Sử Đại Thắng Mùa Xuân Năm 1975
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là trận quyết chiến chiến lược vĩ đại của quân dân ta, diễn ra liên tục trên chiến trường, mở đầu là Chiến dịch Tây Nguyên với chiến thắng Buôn Ma Thuột, tiếp đó là đòn tiến công chiến lược giải phóng Huế – Đà Nẵng, cuối cùng là đòn tiến công giải phóng Sài Gòn – Gia Định bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, nhân dân ta đã kết thúc và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả dân tộc Việt Nam vang khúc khải hoàn, thắng lợi đó đã chấm dứt 117 năm chống lại các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, hai miền Nam Bắc nối liền một dải.
Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại thắng mùa Xuân 1975 đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam với trí tuệ và tài thao lược trong chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm và chiến thắng, đây là một chiến công lớn trong thế kỷ XX của dân tộc Việt Nam, là thiên anh hùng ca bất hủ của chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh, như một kỳ tích, một huyền thoại mang tầm vóc thời đại đi vào lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết quả tổng hợp của thời cơ cách mạng, sự phát triển có tính chất bước ngoặt về thế và lực của cách mạng Việt Nam, sự hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để làm nên chiến thắng vĩ đại – chiến thắng 30/4/1975, là thể hiện đỉnh cao của khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, đó là nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu chống mạnh, lấy ít đánh nhiều, lấy trang bị kỹ thuật ít hơn và kém hiện đại đánh thắng kẻ thù có trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, biểu thị một tư duy quân sự sáng tạo.
Chiến thắng 30/4/1975, khẳng định tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương hướng cách mạng đúng đắn, đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, đó là đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự hiện thực hóa của đường lối lãnh đạo: kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo nên xung lực cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Lý luận cách mạng sáng tạo, đường lối đúng đắn đã trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp yếu tố trong nước với quốc tế, phối hợp nhịp nhàng sức mạnh của hai miền Nam Bắc, để đi tới chiến công hiển hách, thắng lợi hào hùng vào ngày 30/4/1975.
Năm 2020 là tròn 45 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 30/4/1975, vẫn luôn in dấu ấn sâu đậm trong trái tim và khối óc của mỗi người dân Việt Nam và bạn bè tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, bởi đây là ngày lịch sử đánh dấu thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội trong thế kỷ XX, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Năm 2020 cũng là năm đất nước có nhiều ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn, sự kiện chính trị quan trọng, như: 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 – 2020); 75 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945 – 2020); 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 2020); năm tiến hành đại hội Đảng bộ các cấp, chuẩn bị tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đặc biệt, năm 2020 là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, nhiều nhiệm vụ lớn, quan trọng đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cần nỗ lực và tập trung giải quyết. Chiến thắng 30/4/1975 sẽ mãi mãi vẫn là sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thành tựu đã đạt được trong gần 35 năm đổi mới đất nước từ 1986 đến nay, là kết tinh của sự kế thừa truyền thống anh dũng, kiên cường trong chiến đấu, năng động và sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với ý chí quyết tâm, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh thời đại và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất định đất nước ta sẽ nắm bắt thời cơ, thuận lợi, vượt qua thách thức, khó khăn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu lập nên những kỳ tích vĩ đại, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng đổi mới, sáng tạo phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ gìn hòa bình, ổn định; phấn đấu giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa III tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2004, tập 37, trang 471).
Theo hanoi.gov.vn
Kỷ Niệm 44 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam: Đại Thắng Mùa Xuân 1975
Nhân dịp kỉ niệm 44 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2019), Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) xin trân trọng giới thiệu bài viết “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo, sáng tạo” của Đại tá Trần Tiến Hoạt-nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Chỉ đạo chiến lược kiên quyết, sắc bén, linh hoạt
Do chịu thất bại nặng nề trên chiến trường và phong trào phải đối chiến tranh dâng cao cả trong và ngoài nước, tháng 1/1973, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút quân về nước. Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, Mỹ tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự chỉ đạo chính quyền, quân đội Sài Gòn phá hoại Hiệp định vừa ký kết, mở hàng ngàn cuộc hành quân “bình định, lấn chiếm”, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam. Chính phủ Mỹ còn thi hành chính sách ngoại giao xảo quyệt, thỏa thuận với các nước lớn xã hội chủ nghĩa cắt giảm viện trợ, gây áp lực hạn chế thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước âm mưu và hành động chiến tranh mới của địch, cách mạng miền Nam gặp những khó khăn, tổn thất nhất định. Nhiều địa phương tỏ ra lúng túng, nhấn mạnh đến hòa bình, hòa hợp, buông lỏng tư tưởng chiến lược tiến công nên trên một số địa bàn bị mất đất, mất dân. Chỉ tính riêng trong năm 1973, địch đóng thêm 500 đồn bốt, chiếm thêm 70 xã và gần 1.000 ấp, kiểm soát thêm 65 vạn dân…
Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường, nồng nhiệt chào đón Quân giải phóng tiến vào thành phố. Ảnh: Hứa Kiểm -TTXVN
Nắm bắt tình hình trên, tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 nhấn mạnh: Bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng cũng là sử dụng bạo lực cách mạng, do đó phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao để giành toàn thắng. Thực hiện nghị quyết của Đảng đề ra, quân dân ta trên chiến trường đã kiên quyết mở những cuộc phản công, tiến công trực tiếp giáng trả mọi hành động chiến tranh, tiêu hao, tiêu diệt một phần sinh lực địch, đánh bại cơ bản kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng, bảo vệ, mở rộng vùng giải phóng, tạo ra thế và lực mới cho kháng chiến. Đặc biệt, ta giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Đường 14 – Phước Long (từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/1/1975) loại khỏi vòng chiến đấu trên 4.000 địch, giải phóng toàn tỉnh Phước Long (Đông Nam Bộ) với trên 50.000 dân. Chiến thắng này cho thấy khả năng chiến đấu của quân chủ lực ta đã hơn hẳn quân chủ lực của địch, đồng thời cho thấy khả năng phản ứng rất hạn chế của Mỹ, tạo thêm cơ sở cho cơ quan chỉ đạo chiến lược cách mạng hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, so sánh lực lượng ở miền Nam có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng, trên cơ sở đó, Hội nghị Bộ Chính trị (từ 30/9 đến 7/10/1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ 18/12/1974 đến 8/1/1975) đã ra nghị quyết lịch sử, hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước trong thời gian 2 năm (1975 – 1976). Theo kế hoạch đề ra, trong năm 1975, cách mạng sẽ tranh thủ thời cơ bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo tiền đề để trong năm 1976 tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa giành toàn thắng. Tuy đề ra kế hoạch 2 năm, nhưng Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: Nếu thời cơ đến sớm thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Về phương hướng, yêu cầu đặt ra, Bộ Chính trị nhấn mạnh: cần tranh thủ thời cơ thực hiện tổng công kích-tổng khởi nghĩa, phải đánh thắng nhanh để giảm thiệt hại về người và của cho nhân dân, đồng thời giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Đây thực sự là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh, thể hiện tầm cao trí tuệ, tư tưởng và truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam, điều đó vượt lên trên mọi toan tính của các nhà hoạch định chính sách phía Mỹ, đồng thời đập tan những luận điệu xuyên tạc về “các cuộc tắm máu” mà các thế lực thù địch, phản động ở trong và ngoài nước rêu rao. Trên thực tế khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, nắm bắt kịp thời những diễn biến của chiến trường, Bộ Chính trị không ngừng bổ sung quyết tâm chiến lược, quyết định rút ngắn thời gian: giải phóng hoàn miền Nam ngay trong năm 1975 (cuộc họp ngày 18/3/1975), giải phóng hoàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975 (cuộc họp ngày 25/3/1975), giải phóng hoàn miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là ngay trong tháng 4 năm 1975 (cuộc họp ngày 1/4/1975).
Thực hành tổng tiến công và nổi dậy toàn diện, triệt để, nhanh gọn
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 4/3/1975 và kết thúc vào ngày 30/4/1975, trong đó tiến công quân sự đóng vai trò quyết định với ba chiến dịch chiến lược liên tục về thời gian và liên kết về không gian đi đến đánh sập quân đội Sài Gòn. Mỗi chiến dịch chiến lược lại có cách thức tổ chức thực hiện độc đáo, sáng tạo khác nhau.
Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3 đến ngày 3/4/1975) là đòn giáng mở đầu Tổng tiến công và nổi dậy nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh nam Tây Nguyên, mở rộng hành lang nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới cho chiến trường. Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên xác định trận tiến công Thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt. Lực lượng cách mạng hoàn toàn áp đảo. Ta sử dụng cách đánh mới: tổ chức các mũi đột kích binh chủng hợp thành kết hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh bí mật triển khai trước đánh thẳng vào trung tâm thị xã, nhanh chóng tiêu diệt cơ quan chỉ huy đầu não địch rồi mới phát triển trở ra bên ngoài thị xã. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, tiếng súng đánh chiếm Buôn Ma Thuột bắt đầu. Đại bộ phận các đơn vị bộ binh cơ giới, xe tăng thọc sâu tại các vị trí chờ đợi từ xa trên các hướng, các trục đường khác nhau theo lệnh vượt qua các tuyến vòng ngoài ào ạt đánh chiếm những mục tiêu chủ yếu trong thị xã. Có những đơn vị phải vượt qua chặng đường dài 30-40 km nhưng vẫn bảo đảm thời gian hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đòn tiến công đã làm cho Mỹ, chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, choáng váng. Mọi sự kháng cự và ứng cứu của địch đều bị đập tan. Đến trưa ngày 11 tháng 3, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã. Việc đánh chiếm giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột trong hơn một ngày đêm là một trong những chiến công vang dội của cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trực tiếp mở ra thắng lợi của toàn chiến dịch Tây Nguyên nói riêng, toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói chung.
Tiếp theo là đòn tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng (26/3 đến 29/3/1975). Sau khi mất Tây Nguyên, chính quyền và quân đội Sài Gòn rơi vào tình trạng hoang mang, rối loạn. Địch tập trung quân về giữ thành phố Huế và khu liên hợp quân sự Đà Nẵng, chờ đợi viện binh từ phía Nam ra phản công. Nhạy bén tranh thủ thời cơ, ta nhanh chóng mở cuộc tiến công trong hành tiến giải phóng Huế (26/3), sau đó phát triển thành chiến dịch tiến công quy mô lớn bằng thế hợp vây của ba cánh quan từ ba hướng Bắc, Tây, Nam đánh vào Đà Nẵng, phá tan thế co cụm, diệt và làm tan rã 10 vạn địch, làm thay đổi hẳn tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường.
Đánh chiếm Dinh Độc Lập. Ảnh: Mai Hưởng – TTXVN
Đến những ngày cuối tháng 4 năm 1975, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng: Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm bằng được: Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc lập, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất. Về mặt lực lượng, quân ta vẫn chiếm ưu thế áp đảo. Nhưng đánh bằng cách nào có hiệu lực nhất, để vừa phát huy hết sức mạnh của tất cả lực lượng, giành thắng lợi nhanh nhất, vừa giảm thiểu được sự tàn phá của chiến tranh (giữ được Sài Gòn hầu như nguyên vẹn) là vấn đề đặt ra cấp thiết. Lúc này, trong nội thành Sài Gòn, địch tổ chức phòng thủ thành 5 liên khu do toàn bộ lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự phụ trách. Ở vòng ngoài, chúng bố trí các sư đoàn chủ lực mạnh muốn ngăn chặn quân ta từ xa 30-50km, đề phòng khi bị tiến công, chúng sẽ từng bước lùi dần và co cụm về Sài Gòn “tử thủ”. Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng cách đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, đó là dùng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, tiêu diệt, làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch ở vòng ngoài; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới hóa mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu đã được lựa chọn trong nội thành. Với cách đánh như vậy, quân ta hoàn toàn tập trung được sức mạnh để đánh vào các mục tiêu chủ yếu đã lựa chọn kết hợp với tiêu diệt địch ở vòng ngoài không cho địch trong ngoài ứng cứu làm giảm bước tiến quân của ta.
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi vẻ vang đã khẳng định cho cách đánh này là hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, cách mạng đã giữ được thành phố Sài Gòn hầu như nguyên vẹn. Đó là một thành công to lớn mà cả thế giới thấy kinh ngạc.
Phối hợp chặt chẽ với các đòn quân sự then chốt là các cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân các địa phương khắp chiến trường (đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long) theo phương thức xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Đến ngày 2/5/1975, miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng.
Như vậy, trong một thời gian ngắn (55 ngày đêm), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng đã diệt và làm tan rã hơn 1 triệu quân chủ lực và khoảng 1,5 triệu quân thuộc lực lượng phòng vệ dân sự của địch, đập tan bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn, giải phóng miền Nam, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời kết thúc vẻ vang cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), mở ra kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam: cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc, khẳng định nét độc đáo, sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh của Đảng Lao động Việt Nam phù hợp với yêu cầu của thời cơ quân sự, thời cơ chính trị và hơn hết khẳng định cho trí tuệ, tài thao lược Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Đề xuất
Thơ Về Đại Thắng Mùa Xuân 1975
Lời BBT: Năm mươi sáu ngày đêm lịch sử (từ 4-3 đến 30-4-1975) trong thế trận “trúc chẻ ngói tan” khi thời cơ chiến lược xuất hiện, táo bạo, thần tốc, quân và dân ta dốc sức tiến công, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, lành lại nỗi đau chia cắt, đem niềm vui hòa bình đến với mọi nhà, với toàn dân tộc. Đồng Nai trước giải phóng 1975 là địa bàn chiến lược, cửa ngõ vào Sài Gòn, nơi địch điên cuồng lập phòng tuyến tử thủ, đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, đổ nhiều xương máu hy sinh.
Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Đồng Nai Cuối tuần giới thiệu một số bài thơ của những người lính trực tiếp tham gia chiến dịch lịch sử, có mặt trong những trận chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang ấy. Trang thơ do nhà thơ Đàm Chu Văn tuyển chọn.
Thương
Đã vượt qua cả ngàn cây số đạn bom
bạn nằm lại ở rừng cao su Bà Rịa
đành chịu lỗi với mẹ
ngày mai chiến dịch cuối cùng sẽ mở
chắc mẹ ở nhà dõi theo chờ
máu chảy theo hình chữ S
chảy đến mỗi ngõ nhà…
25-4-1975
Lực lượng giải phóng tiến vào Sài Gòn mang theo cờ và ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 30-4-1975. Ảnh: Jacques Pavlovsky
Khi ấy mặt trời chưa lên
Chỉ có pháo bắn thật gần
mới được cười thoải mái
bom nổ loạt thật dài
mới hát hết một câu
Pháo sáng vãi đúng đầu
mới nhìn rõ mặt nhau
mới nhìn rõ những cái đầu
mọc lên từ cát
giống một vườn cây ươm
Chỉ có dứt hẳn tiếng pháo, tiếng bom
mới nghe tiếng gào
của dòng sông chảy xiết
tiếng quẫy nước
phải rất tinh mới nghe thấy được
trong chớp lửa nhập nhòe
chúng tôi vượt sông
Chỉ có ánh sáng vừa lên
mới trông rõ dải sao trong khói bom
không đứng yên mang tâm hồn chiến sĩ
mới trông rõ dòng sông Đồng Nai lấp loáng
chảy ngang
và đội hình chúng tôi vượt qua
hàng dọc
thành một dấu cộng
mặt trời khi ấy chưa lên
Mặt trời sẽ lên thôi
chúng tôi đẩy mặt trời lên
để nhìn rõ Sài Gòn phía trước
để viên đạn bay đi khỏi lạc
bầy chim xòe quạt đón mặt trời
Sài Gòn ơi!
hồi hộp kia rồi
qua họng súng bồn chồn trên sóng nước
mặt trời khi ấy
vẫn chưa lên…
Vượt sông Đồng Nai.
30-4-1975
Vương Cường
Đêm vào chiến dịch
Ta lại mở những cung đường mới nữa
Đường dài không nhớ hết những đoàn quân
Bánh xe lăn hòa với những bước chân
Ngọt trong gió đêm hè chiến dịch
Ôi con đường dẫn ta tới đích
Là con đường có ánh sáng hàng tiêu
Đồng chí công binh bắt tay người ra trận
Thấy con đường ấm như bàn tay
Từ Xuy Nô đến ngã ba Cây Điệp
Những con đường nối bước xung phong
Đêm không ngủ dẫn xe vào trận đánh
Bóng nghiêng dài trên tháp pháo xe tăng
Ngâm mình trong nước lạnh
Nhổ rào kẽm gai, cột sắt
Áo loang màu đất, mùi bùn
Tất cả vững vàng trong thế trận tấn công!
Bến Cát, tháng 4-1975
Đức Quả
Những Chiến sĩ Điện Biên
Tư lệnh trưởng hướng Bắc gặp Chính ủy hướng Nam
Nỗi xúc động rung hai mái đầu tóc bạc
Những Chiến sĩ Điện Biên năm trước
Lại gặp nhau ở đích cuối cùng.
Dọc xa lộ Biên Hòa
Đỏ lòng xa lộ: màu cờ
Trắng bờ xa lộ: giặc giơ tay hàng
Chúng thoát chết, miệng hân hoan
Sài Gòn mở cửa đón đoàn quân vô.
Trước Dinh Độc Lập
Dép còn lấm đỏ đất rừng
Hân hoan nhịp bước giữa rừng cờ hoa
Hồn như bay giữa giấc mơ
Quanh tôi ba má, dì cô hỏi chào
Vui sao nước mắt dâng trào
Bốn phương đồng đội gặp nhau phen này.
30-4-1975
Nguyễn Miền Đông
Trận cuối cùng
Mai vào trận cuối cùng
Đêm nay ta không ngủ
Tin vui như hoa nở
Náo nức mãi trong lòng
Gần xa trong tiếng súng
Tiếng dân reo vang lừng
Một vùng đất mênh mông
Đã rợp cờ giải phóng
Ta như cơn gió lốc
Mới ngày nào Chơn Thành
Hôm qua về Long Khánh
Biên Hòa đây rồi anh!
Những binh đoàn lớp lớp
Tiến quân về Sài Gòn
Tăng, pháo ta trùng trùng
Mặt quân thù khiếp đảm
Đồn bốt thù hiện ra
Lù lù trong bóng tối
Những lá cờ ba que
Trong đêm đen hấp hối
Ta hành quân thần tốc
Sài Gòn ta vây chặt
Quả đấm thép sẵn sàng
Giáng xuống đầu quân giặc
Nào, tăng ơi xông lên!
Hãy gầm vang đường phố
Quyết tâm trong trận này
Diệt thù tận hang ổ!
Mai vào trận cuối cùng
Đêm nay ta không ngủ
Trời đã hừng phía đông
Sài Gòn ơi, súng nổ!
29-4-1975
Nguyễn Quốc Trung
Bộ đội Quân đoàn 4 tiến vào giải phóng Xuân Lộc tháng 4-1975
Sài Gòn vào trận (trích)
Cờ trắng địch kinh hoàng trong tiểu khu Hàm Tân
trận cuối cùng này lại ghi thêm một chiến công chói lọi
cùng với hôm qua quân ta tiến vào Xuân Lộc giáng đòn vỗ mặt kẻ thù
ở đấy phòng tuyến được ken bằng xe tăng, phi cơ, bộ binh và lính dù chẳng ngăn được lớp sóng tiến công bắt đầu từ Phước Long, Pleiku, Buôn Mê Thuột; lớp sóng của những người chân đi dép cao su mang khí thế ngựa Gióng năm xưa và nghĩa quân Nguyễn Huệ tràn qua dải cát miền Trung, tràn qua những cánh rừng già cao nguyên bốn mùa mầu lá xanh um hướng về thành phố dinh lũy cuối cùng của lũ tay sai ngoan cố nơi đau thương trùm lên từng xóm nhỏ những căn nhà, ô cửa mốc meo chồng lớp trước sau những mái hiên thấp tè và tường gạch xỉn màu day dứt uất căm chồng chất.
Sóng ơi! Hãy bổ vào thành phố với những con đường như nhà lao khép chặt
Lửa ơi! Hãy bùng lên từ lòng Sài Gòn ấp ủ bao năm giải phóng những người thợ áo xanh, giải phóng những người buôn thúng bán bưng, giải phóng những em thơ, những ca-ve có cuộc đời như ngõ cụt; cho Chương Dương lại vang lên khúc hát, tiếng hát hào hùng có tự ngàn xưa; cho Thị Nghè sóng sánh nước xanh mơ; Sài Gòn yêu thương lại sáng ngời giữa lòng dân tộc.
Khi cờ đỏ ta bay trên phố dài Xuân Lộc
là lúc ta bắt đầu…
Lê Quang Trang
Bạn đang xem bài viết Vbt Lịch Sử 9 Bài 31: Việt Nam Trong Năm Đầu Sau Đại Thắng Xuân 1975 trên website Caffebenevietnam.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!